SKKN Nâng cao hiệu quả công tác tư vấn tâm lý cho học sinh của giáo viên chủ nhiệm ở trường Trung học Phổ thông
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Nâng cao hiệu quả công tác tư vấn tâm lý cho học sinh của giáo viên chủ nhiệm ở trường Trung học Phổ thông", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- skkn_nang_cao_hieu_qua_cong_tac_tu_van_tam_ly_cho_hoc_sinh_c.doc
- 1.MỤC LỤC.doc
- 3.PHIẾU TƯ LIỆU.doc
- Bìa skkn 2018.doc
- Mau 1.1_ Don de nghi cong nhan sang kien cap co so.doc
Nội dung tóm tắt: SKKN Nâng cao hiệu quả công tác tư vấn tâm lý cho học sinh của giáo viên chủ nhiệm ở trường Trung học Phổ thông
- Bảng thăm dò các cách giải quyết của học sinh THPT khi gặp những khó khăn, vướng mắc trong học tập và trong cuộc sống Tổng số HS khảo sát: 45 Các cách giải quyết Số lượng Tỉ lệ (%) Tìm đến sự trợ giúp của cha mẹ 2 4.44 Tìm đến sự trợ giúp của thầy cô 0 0 Tìm đến sự trợ giúp của bạn bè 35 77.78 Tìm đến sự trợ giúp của các chuyên gia tâm lý 0 0 Tìm đến sự trợ giúp từ mạng xã hội 40 88.89 Tự mình khắc phục 43 95.56 Không làm gì cả 2 4.44 Bảng thăm dò mức độ thường xuyên đến phòng tư vấn tâm lý học đường của trường Tổng số HS khảo sát: 45 HS Mức độ đến Rất thường Thường Không Chưa bao giờ phòng TVHĐ xuyên xuyên thường xuyên Số lượng 0 0 6 39 Tỉ lệ (%) 0 0 13.33 86.67 Mặt khác, phòng tư vấn của trường chưa đảm bảo được yêu cầu của một phòng tư vấn vì chưa đảm bảo sự kín đáo, riêng tư, tạo cho các em cảm giác an toàn. Ngoài ra, thực tế đáng buồn nữa là nhiều giáo viên kể cả giáo viên chủ nhiệm là những người gần gũi với học sinh nhất vẫn chưa ý thức được tầm quan trọng của tư vấn học đường. Trong các tiết sinh hoạt lớp giáo viên thường dành nhiều thời gian để phổ biến các hoạt động tuần tiếp theo, phê bình các học sinh vi phạm hoặc có những biểu hiện không tốt trong tuần vừa qua. Một số giáo viên chưa quan tâm, tìm hiểu nguyên nhân tại sao học sinh lại như vậy và nếu tìm hiểu được nguyên nhân thì lại không biết phải tác động như thế nào, nhất là khi học sinh gặp những vấn đề nhạy cảm về giới tính, tình bạn, tình yêu Về phía gia đình, nhiều bậc cha mẹ còn mải mê lo kinh tế, ít dành thời gian để gần gũi và quan tâm đến con nên không hiểu được suy nghĩ của con mình. Nhất là các 5
- em học sinh cấp THPT đều bước vào độ tuổi đang lớn, tâm sinh lý có nhiều thay đổi, nhiều bậc phụ huynh không theo sát sự phát triển của con, chưa quan tâm đúng mức đến sự phát triển tâm sinh lý của con nên không thấy được những khó khăn các em đang mắc phải để kịp thời hỗ trợ. Một số học sinh bị ảnh hưởng từ cuộc sống gia đình không hạnh phúc, ba mẹ thường xuyên cãi cọ, ly hôn Sứt mẻ tình cảm gia đình làm các em thường cảm thấy mặc cảm, tự ti về bản thân, một số khác rơi vào trạng thái chán nản, mất phương hướng, muốn trả thù đời nên thường tìm cách quậy phá, chống đối. Đối với những học sinh này, để giúp đỡ các em phải tác động từ gia đình. Đây là một điều vô cùng khó khăn đối với nhà trường. B. GIẢI PHÁP Trên đây là một số những khó khăn vấp phải trong công tác tư vấn tâm lý cho học sinh ở trường THPT. Để khắc phục phần nào những khó khăn, hạn chế trên, tôi đã mạnh dạn thực hiện một số giải pháp bước đầu và có đạt hiệu quả tích cực. Cụ thể như sau: B.1. Tìm hiểu hoàn cảnh HS Là một GVCN, trước hết tôi phải tìm hiểu thật cặn kẽ tình hình học sinh thông qua các nguồn khác nhau. Từ bản thân các em thông qua Phiếu thông tin cá nhân, có thể nắm được hoàn cảnh kinh tế gia đình, tình hình nhà ở, mối quan hệ gia đình, xã hội, những ước muốn, sở trường, những khó khăn nếu có, Với những thông tin đầu tiên này, tôi có thể sàng lọc chọn ra những học sinh có hoàn cảnh đặc biệt để nếu cần, thu thập thêm thông tin về các em thông qua bạn bè, cha mẹ, GVCN hay thầy cô cũ của các em. Đối với những HS có hoàn cảnh đặc biệt, tôi luôn gần gũi trò chuyện tiếp xúc với các em nhiều hơn, tạo cho các em sự thân thiết, tin tưởng để có thể dễ dàng bộc lộ tâm tư tình cảm, điều mong muốn của chính mình khi cần thiết. Qua đó tôi sẽ hiểu các em hơn và kịp thời ngăn chặn những suy nghĩ nông cạn, sai lầm hay các hành vi không hay hướng các em nhận thức được giá trị bản thân, nâng cao lòng tự trọng và biết cố gắng để vượt qua những khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống. 6
- Tuy nhiên, trong cuộc sống, không có gì là không thể xảy ra. Vì vậy, đối với những học sinh được đánh giá thật bình thường về hoàn cảnh, về tâm lý, cũng không nên chủ quan cho rằng không cần phải quan tâm đến các em. GVCN phải thể hiện sự quan tâm của mình đến với từng học sinh, nhưng cũng phải đặt trọng tâm, trọng điểm ở một số học sinh đặc biệt. Song song đó, GVCN cũng cần tự hình thành cho mình một mạng lưới thu thập thông tin riêng từ các nguồn: giáo viên bộ môn, cha mẹ, bạn bè của học sinh B.2. Chú ý quan sát HS GVCN cần chú ý quan sát để phát hiện những thay đổi trong hành vi, những hiện tượng bất thường trong đời sống học đường, quan sát những biểu hiện của học sinh có nguy cơ rối nhiễu tâm lý. Đó có thể là những biểu hiện nhỏ: đi trễ, không mang giày, không mặc đúng trang phục theo quy định, cáu gắt với bạn, lo âu, hay lớn hơn: nghỉ học không xin phép, trốn tiết. Và nghiêm trọng hơn, như vi phạm kiểm tra, vô lễ với giáo viên, Với những học sinh cá biệt, việc nghỉ học, trốn tiết là chuyện thường ngày, nhưng với những học sinh vốn ngoan ngoãn, chăm chỉ thì một biểu hiện nhỏ nhất cũng là điều cần lưu ý. Một học sinh học khá, chưa một lần đi trễ hay nghỉ học lại đi học trễ. Khi được hỏi trước lớp về lý do đi trễ, đã rơi nước mắt và im lặng. GVCN gọi riêng hỏi han, em mới chia sẻ lý do thật sự về việc đi học muộn giờ của mình. Với trường hợp này, nếu GVCN cứ cứng nhắc áp dụng kỷ luật mà không cần hỏi han, có thể sẽ gây một chấn động tâm lý cho học sinh. B.3. Tổ chức các giờ sinh hoạt lớp theo các chuyên đề Ví dụ chuyên đề 1: Tình yêu, giới tính và quan hệ với bạn khác giới Để thực hiện hiệu quả chuyên đề này, GVCN mời một vài phụ huynh có kinh nghiệm, hiểu biết sâu sắc hoặc các giáo viên được HS yêu mến đến cùng tham gia tư vấn để các em được thoải mái bộc lộ quan điểm của mình, tạo điều kiện các em được giao lưu, trao đổi các vấn đề còn vướng mắc của bản thân. GVCN hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước ở nhà một số câu hỏi về các vấn đề bản thân đang mắc phải. Thông qua các buổi tư vấn đó, học sinh được trang bị những kiến thức cơ bản về giới tính của bản thân, còn giáo viên cũng nắm được những vướng mắc mà học sinh mình đang mắc phải để có thể hỗ trợ các em hiệu quả nhất. 7
- Ví dụ chuyên đề: Quan hệ giao tiếp, ứng xử với gia đình, thầy cô và bạn bè. Trong những tiết sinh hoạt lớp, GVCN hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước một số tình huống (bằng câu hỏi hoặc clip) phản ánh những tình huống thường xảy ra trong qua hệ giữa các em với gia đình, với giáo viên và giữa các em với nhau. Động viên học sinh mạnh dạn trả lời, bày tỏ suy nghĩ của bản thân, tham gia tranh luận, bổ sung cho nhau. Trên cơ sở hiểu được suy nghĩ của các em, để đưa ra những định hướng điều chỉnh phù hợp. B.4. Thiết lập đường dây nóng giữa HS và GVCN Thiết lập đường dây nóng giữa HS và GVCN để những em có tính rụt rè, không dám hỏi trực tiếp có thể đặt câu hỏi về những vấn đề mình đang mắc phải. Tôi cung cấp số điện thoại, địa chỉ mail cá nhân và địa chỉ facebook cho học sinh để các em tiện trao đổi. Tất cả các câu hỏi của học sinh tôi cố gắng trả lời trong ngày, những vấn đề quá rắc rối, tôi sẽ trả lời sớm nhất sau khi tham khảo ý kiến của chuyên viên tư vấn. B.5. Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh Thường xuyên trao đổi thông tin về học sinh, nâng cao nhận thức của phụ huynh về vấn đề tâm sinh lý lứa tuổi để có sự quan tâm đúng mức đến con cái, phát hiện kịp thời những biểu hiện không bình thường của các em để có sự hỗ trợ kịp thời. Thông qua các buổi họp phụ huynh định kỳ và những lần gặp mặt riêng phụ huynh của một số em có những biểu hiện bất thường, sai khác, nhấn mạnh vai trò của gia đình trong việc giáo dục con cái. Cha mẹ phải quan tâm và thường xuyên trò chuyện với con mình như những người bạn, lắng nghe con tâm sự để hiểu con cần giúp đỡ như thế nào, đối với những vướng mắc từ trường lớp, bạn bè, cha mẹ báo với giáo viên chủ nhiệm để phối hợp giúp đỡ các em giải quyết. B. 6. Gắn kết tinh thần yêu thương chia sẻ của các thành viên trong lớp và giữa HS với GV GVCN cần chú ý xây dựng mối quan hệ tốt giữa giáo viên với học sinh, học sinh với học sinh trên sơ sở thương yêu, tôn trọng và chân thành với nhau. GVCN phải thực sự tin tưởng vào các em, tạo điều kiện để các em phát huy năng lực, sở trường, tạo điều kiện để nâng cao tinh thần trách nhiệm của các em. GVCN cũng cần 8
- tạo cho các em có cảm giác an toàn trong lớp học bằng cách xây dựng một bầu không khí "gia đình", để các em thật sự cảm thấy trường, lớp chính là nhà, bạn bè, thầy cô là những người thân yêu, khi vui có thể cùng nhau cười, khi buồn có thể dựa vào mà khóc. Cần tìm hiểu để nắm bắt được năng lực, sở trường của học sinh. Việc làm này tưởng như không liên quan đến hoạt động tư vấn tâm lý, nhưng thật ra lại hỗ trợ đắc lực cho việc củng cố, kích thích ở học sinh lòng tự tin, giúp các em đủ niềm tin để đưa ra những quyết định đúng đắn. Ví dụ, GVCN hướng dẫn các học sinh nam tổ chức kỷ niệm ngày Phụ nữ Việt Nam 20/10, ngày Quốc tế phụ nữ 8/3, tổ chức trò chơi bốc thăm tặng hoa. Bạn nam bốc thăm trúng tên bạn nữ nào sẽ tặng hoa cho bạn đó kèm một lời chúc mừng. Bạn nam nào có cử chỉ tặng hoa lãng mạn nhất, lời chúc mừng hay nhất sẽ nhận được một phần thưởng đặc biệt. Thông qua các trò chơi đó, xây dựng và củng cố mối quan hệ bạn bè tốt đẹp, gắn bó. Cùng học sinh tổ chức toạ đàm kỷ niệm ngày Nhà giáo Việt Nam 20- 11, mời giáo viên bộ môn, giáo viên làm công tác Đoàn về tham dự. Hướng dẫn học sinh đặt câu hỏi về tuổi học trò của các thầy cô, những kỷ niệm vui, buồn trong cuộc đời làm nghề giáo, những mong muốn của thầy cô đối với học trò hôm nay tạo không khí gần gũi, thân mật giữa thầy cô và học sinh. Tổ chức chương trình văn nghệ “Tri ân thầy cô” gồm các tiết mục của các bạn trong lớp hát về thầy cô và mái trường. Mời một số thầy cô lên giao lưu văn nghệ với lớp. Thường xuyên trao đổi với các em về vai trò của gia đình trong cuộc sống của con người, phối hợp với hội phụ huynh của lớp tổ chức toạ đàm về vai trò của gia đình để lắng nghe các em chia sẻ suy nghĩ và những mong ước của bản thân đối với cha mẹ, đồng thời giúp các em hiểu được suy nghĩ, mong ước của cha mẹ và thông cảm với cha mẹ mình. Qua đó góp phần xây dựng quan hệ gắn bó, cởi mở, gần gũi giữa cha mẹ và con cái. C. KẾT QUẢ VÀ ĐỀ XUẤT C.1. Kết quả Đề tài này tôi thực hiện ở lớp chủ nhiệm 11A6 năm học 2018- 2019 ở trường THPT Bình Xuyên và đã đem lại hiệu quả giáo dục rất khả quan. Cụ thể là: 9
- - Xây dựng được tập thể lớp đoàn kết, tương thân tương ái, học sinh tự giác hỗ trợ, giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn trong học tập và trong cuộc sống. Trong lớp có một số em có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt đã được tập thể lớp hỗ trợ hết mình về vật chất và tinh thần, lớp không ngừng tìm kiếm các nguồn tài trợ từ các tổ chức trong và ngoài nhà trường để giúp đỡ các bạn vượt qua khó khăn tiếp tục đến trường. - Trước khi thực hiện đề tài, việc thực hiện nội quy học sinh của các em chưa tốt, nhiều học sinh thường xuyên vi phạm nội quy học sinh về các vấn đề như trang phục, đi học trễ , sử dụng tài liệu trong kiểm tra, Sau khi thực hiện các biện pháp tư vấn học đường, số lượng học sinh vi phạm giảm xuống đáng kể: không có học sinh vi phạm trong giờ kiểm tra, không có học sinh mặc đồng phục sai quy định, số học sinh đi học trễ đã giảm đáng kể Ý thức tự giác của các em được nâng cao rất nhiều. Trong bảng thi đua giữa học kỳ một, lớp vươn lên vị thứ 3 toàn khối 11 cuối học kỳ 1. Bảng thăm dò đánh giá mức độ vi phạm nội quy của học sinh trong lớp Tổng số HS khảo sát: 45 Số phiếu Tỉ lệ (%) Vi phạm nhiều 0 0 Có vi phạm 3 6.67 Ít vi phạm 7 15.56 Không vi phạm 35 77.78 - Trong các mối quan hệ, các em HS đã tỏ ra mạnh dạn hơn khi thể hiện mình, bớt rụt rè, e ngại khi đứng trước đám đông. Các em tham gia các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao do Đoàn thanh niên, Công đoàn nhà trường phát động rất tích cực. Do đó trong học kì I năm học 2018-2019, tập thể lớp đã đạt được nhiều thành tích cao trong các cuộc thi do Đoàn thanh niên nhà trường phát động: + Hội thi cắm hoa chào mừng ngày nhà giáo 20/11: giải Ba + Thi kéo co: giải Nhì + Thi văn nghệ: giải Nhì + Xếp loại thi đua tập thể: giải Ba + Xếp loại chi đoàn: Tiên tiến xuất sắc. 10
- - Trong lớp, 100% HS có hạnh kiểm tốt, 10/45 HS có học lực giỏi, chiếm 22,3%, không có HS học lực trung bình, yếu, kém; không có hiện tượng bạo lực học đường, bắt nạt, chia bè phái. HS sống có trách nhiệm hơn với bản thân, gia đình và tập thể lớp. Không xảy ra tình trạng HS bỏ học đi chơi bi a, điện tử, chat, - Tinh thần của các em sau các buổi sinh hoạt tập thể rất hào hứng, nhiều HS bày tỏ rằng các em rất mong đến cuối tuần để được khẳng định mình trong giờ sinh hoạt lớp, tham gia vào các hoạt động tập thể của lớp. Vì qua đây các em có thể nhận thức được giá trị của bản thân, giá trị của tinh thần đoàn kết và có thêm nhiều hành vi tích cực cho bản thân để phục vụ vào trong cuộc sống. - Các em thường xuyên tâm sự với giáo viên chủ nhiệm về những vướng mắc trong tình bạn, tình yêu để được chia sẻ và hướng dẫn. Qua đó, GVCN đã nắm bắt được diễn biến tình cảm của học sinh trong lớp, từ đó có những biện pháp tác động phù hợp, để định hướng kịp thời cho các em. Bảng đánh giá mức độ học sinh thường xuyên chia sẻ với GV về các vấn đề tình bạn, tình yêu, và các vấn đề ứng xử hàng ngày Số HS được khảo sát: 45 Rất thường Không thường Thường xuyên Không bao giờ xuyên xuyên Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ Trước khi áp dụng 0 0 2 4.44 10 22.22 33 73.33 TVTL Sau khi áp dụng 8 17.78 25 55.56 10 22.22 2 4.44 TVTL - Đã tạo ra được sự phối hợp tốt giữa GVCN và gia đình học sinh trong việc giáo dục học sinh. Khi học sinh có vấn đề vướng mắc phụ huynh đã chủ động báo cho giáo viên chủ nhiệm. Nhờ đó đã nắm bắt được tình hình học sinh học ở trường cũng như ở nhà và phối hợp với gia đình giải quyết tốt các vấn đề của học sinh. Một số em được sinh ra trong những gia đình khá giả, cộng với sự chiều chuộng quá mức của cha mẹ nên mặc nhiên cho rằng những người xung quanh phải phục vụ cho mình, có biểu hiện thờ ơ với sự vất vả của cha mẹ. Qua nhiều lần tâm sự với cả lớp về những nỗi vất vả của 11
- cha mẹ, những kỳ vọng mà cha mẹ gửi gắm ở các em, nhiều em đã có sự tiến bộ. Một số phụ huynh phản ánh các em đã biết thu xếp thời gian học tập để phụ giúp việc nhà, một số em ngoài thời gian học còn xin đi làm thêm, chia sẻ gánh nặng gia đình với cha mẹ. Hầu hết các em đều ý thức được sự vất vả của cha mẹ, biết thương và thông cảm với cha mẹ mình. - Nhờ ứng dụng các biện pháp tư vấn học đường, tôi đã xây dựng được mối quan hệ gắn bó giữa giáo viên bộ môn với tập thể HS của lớp, giữa HS với HS và giữa HS với GVCN. Các em tìm thấy sự tin cậy từ GVCN, dễ dàng chia sẻ và mở lòng hơn, nhờ đó GVCN kịp thời nắm bắt các vấn đề khó khăn, khúc mắc của các em để có những tác động phù hợp kịp thời. C.2. Đề xuất C.2.1. Nâng cao nhận thức của học sinh, giáo viên - Tư vấn viên về hoạt động tư vấn tâm lý trong nhà trường Trước hết, Ban giám hiệu phải nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của hoạt động tư vấn tâm lý (TVTL) đối với việc giáo dục toàn diện cho HS hướng tới mục tiêu giáo dục của nhà trường phổ thông. Từ đó mới có những biện pháp để động viên mọi thành viên của Ban chỉ đạo hoạt động tư vấn tâm lý tham gia tích cực các hoạt động TVTL và tổ chức tốt đội ngũ tư vấn viên, giáo viên chủ nhiệm tham gia vào hoạt động TVTL, nhất là động viên và sử dụng những giáo viên có kinh nghiệm, có kỹ năng giao tiếp, thấu hiểu mọi vấn đề để làm nòng cốt cho các hoạt động. C.2.2. Kế hoạch hoá HĐTVTL trong nhà trường BGH cần xây dựng toàn bộ chương trình hoạt động TVTL của nhà trường, của Tổ tư vấn tâm lí căn cứ vào hướng dẫn của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Sở Giáo dục và Đào tạo. Xây dựng kế hoạch sử dụng nguồn tài chính, vật chất đảm bảo, sự ủng hộ của các lực lượng ngoài nhà trường. Việc xây dựng kế hoạch hoạt động trong cả năm học sẽ giúp cho người quản lý có cái nhìn bao quát về hoạt động TVTL diễn ra trong một năm như thế nào. C.2.3. Hoàn thiện bộ máy nhân sự làm công tác TVTL Thành lập Ban chỉ đạo TVTL bao gồm: Hiệu trưởng (Phó hiệu trưởng), bí thư Đoàn thanh niên, tổ trưởng tổ chủ nhiệm, đại diện Ban chấp hành Công đoàn, trưởng 12
- ban đại diện Hội CMHS, và một số giáo viên có năng lực trong các hoạt động giáo dục trong nhà trường. C.2.4. Điều chỉnh mô hình tư vấn tâm lý tại các trường THPT Hỗ trợ giáo viên, cán bộ quản lý, cha mẹ học sinh trong việc vận dụng kiến thức tâm lý học và giáo dục học để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, để dự phòng, từ đó ngăn chặn sự phát triển không lành mạnh về sức khoẻ tinh thần ở học sinh; Trực tiếp tìm hiểu, can thiệp sớm với những trường hợp mới chớm có dấu hiệu rối nhiễu. C.2.5. Tăng cường rèn luyện kỹ năng sống, giá trị sống cho học sinh Tăng cường công tác tuyên truyền; Các cơ quan chức năng, các đoàn thể xã hội cần phối hợp tốt với nhà trường đẩy mạnh công tác giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, đạo đức cho học sinh, các trường học chủ động phối hợp với gia đình- nhà trường - xã hội trong việc giáo dục học sinh; Nhà trường giúp gia đình tư vấn giáo dục học sinh, tổ chức nhiều hoạt động ngoại khoá, hoạt động ngoài giờ lên lớp, các hoạt động giáo dục kỹ năng sống, giá trị sống cho các em học sinh. C.2.6. Quản lí các điều kiện hỗ trợ HĐTVTL trong trường học Tăng cường cơ sở vật chất, nguồn tài chính cho tổ chức hoạt động TVTL; Có kế hoạch xây dựng, trang bị cơ sở vật chất trước mắt và lâu dài cho trường bằng các nguồn lực khác nhau. C.2.7. Tăng cường quản lý việc kiểm tra, đánh giá hoạt động tư vấn tâm lý cho học sinh. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá quản lý hoạt động TVTL để điều chỉnh kế hoạch, điều chỉnh những biện pháp quản lý; Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch hoạt động của các bộ phận, của các cá nhân tư vấn viên. C.2.8. Phát huy vai trò của GVCN trong công tác TVTL GVCN có vai trò rất quan trọng, quyết định đối với công tác giáo dục HS, được coi như người mẹ hay người cha thứ hai của HS. Vì vậy, khi TVTL cho HS, GVCN hãy coi các em như con em mình, chỉ bảo tận tình để các em thấy gần gũi, thân thiện. Khi đó, việc tư vấn sẽ đem lại hiệu quả cao. Người GVCN cần biết phối hợp các lực lượng giáo dục, tranh thủ sự giúp sức 13
- từ nhiều phía để tạo nên nguồn lực hỗ trợ cho học sinh mọi nơi, mọi lúc. GVCN có thể tham khảo ý kiến với những người có kinh nghiệm về vấn đề mà học sinh gặp phải, nhưng tuyệt đối không được biến học sinh của mình thành trò cười hoặc tâm điểm chú ý của mọi người. Điều đó có nghĩa là, phải tuân thủ nguyên tắc bảo mật thông tin cho học sinh. Vi phạm nguyên tắc này, về lâu dài, GVCN sẽ tự đánh mất lòng tin mà học sinh dành cho mình. GVCN cần phối hợp với GV bộ môn, các tổ chức trong nhà trường (đặc biệt là Đoàn thanh niên) để lồng ghép tư vấn, giáo dục cho các em một cách đồng bộ, tránh sự mâu thuẫn hay trùng lặp, có như thế mới đưa được nhiều nội dung vào giáo dục. GVCN cũng cần tìm hiểu hoàn cảnh từng HS, đặc điểm tâm sinh lí riêng của mỗi em để có biện pháp giáo dục, tư vấn phù hợp, không thể áp dụng máy móc một kịch bản chung cho tất cả các đối tượng HS. - Về khả năng áp dụng của sáng kiến: Sáng kiến được áp dụng thử nghiệm ở lớp 11A6 và có thể áp dụng ở tất cả các khối lớp trong nhà trường phổ thông. 8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: - Giáo viên nhiệt tình, có trách nhiệm trong việc giảng dạy, giáo dục và rèn luyện hành vi cho học sinh. - Học sinh có tinh thần học tập tích cực đáp ứng được các yêu cầu giáo viên đưa ra. 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: - Học sinh được tư vấn tâm lý kịp thời, khắc phục hiện tượng rỗi nhiễu tâm lý. - Học sinh được củng cố, bồi dưỡng và hoàn thiện nhân cách. - Kích thích được tinh thần học tập của học sinh. - Xây dựng được các mối quan hệ tốt đẹp giữa HS với HS, HS với thầy cô, HS với gia đình, và gia đình với nhà trường. - Tạo dựng được môi trường giáo dục lành mạnh, văn minh. 14
- 10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân: - Tạo sự chuyển biến tích cực cho việc giáo dục đạo đức, phẩm chất, lối sống cho học sinh phổ thông. 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): Phạm vi/Lĩnh vực STT Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ áp dụng sáng kiến 1 Trần Phương Hoa Trường THPT Bình Xuyên Trong công tác chủ nhiệm 2 Hoàng Thị Hồng Hạnh Trường THPT Bình Xuyên Trong công tác chủ nhiệm 3 Đào Thị Thanh Huyền Trường THPT Bình Xuyên Trong công tác chủ nhiệm , ngày tháng năm 2019 Bình Xuyên, ngày 15 tháng 1 năm 2019 Thủ trưởng đơn vị Tác giả sáng kiến (Ký tên, đóng dấu) Trần Phương Hoa 15