Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 4

doc 21 trang vanhoa 5861
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 4", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_giai_phap_hinh_thanh_nang_luc_pham_cha.doc

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp hình thành năng lực, phẩm chất cho học sinh lớp 4

  1. "Giải pháp hình thành năng lực, phẩm chất cho HS lớp 4 theo Thông tư số 30/TT-BGD&ĐT ". 1.PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lí do chọn đề tài: Với học sinh tiểu học, các năng lực được hình thành và phát triển trong quá trình trải nghiệm, tham gia thường xuyên vào các hoạt động học tập, sinh hoạt tập thể, vận dụng kiến thức trong cuộc sống hàng ngày. Điều này được thể hiện qua việc tự phục vụ, tự quản; giao tiếp hợp tác; tự học và giải quyết vấn đề. Các phẩm chất của HS được hình thành và phát triển trong quá trình trải nghiệm, tham gia thường xuyên vào các hoạt động học tập, sinh hoạt tập thể, vận dụng kiến thức trong cuộc sống hàng ngày; chia sẻ, hợp tác, giao tiếp, ứng xử với bạn bè, thầy cô, người lớn. Điều này được thể hiện qua việc chăm học, chăm làm, tích cực tham gia hoạt động giáo dục; Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm; Trung thực, kỉ luật, đoàn kết; Yêu gia đình, bạn bè, con người. GV sẽ quan sát các biểu hiện trong hoạt động của học sinh hàng ngày, hàng tuần để nhận xét, nhận định sự hình thành và phát triển một số năng lực, phẩm chất, từ đó động viên, khích lệ, giúp HS khắc phục khó khăn, phát huy ưu điểm và các tố chất riêng, điều chỉnh hoạt động để tiến bộ, ứng xử kịp thời để tiến bộ. Thực hiện Nghị quyết số 29- NQ/TW ngày 04/11/2013 của Ban chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng công nghiệp hóa hiện đại hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế: “ Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra, đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo”, “Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kì, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học ; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và xã hội”, ngày 28/8/2014 Bộ trưởng Bộ Giáo dục, đào tạo đã ban hành Thông tư số 30/2014 về đánh giá Học sinh Tiểu học. Thông tư 30 bắt đầu có hiệu lực từ ngày
  2. 15/10/2014 và chính thức được áp dụng vào việc đánh giá học sinh các trường Tiểu học trên toàn quốc. Từ chỗ kiểm tra đánh giá thường xuyên bằng điểm số và chủ yếu hướng vào ghi nhớ kiến thức trước đây, được thay bằng đánh giá thường xuyên bằng nhận xét và kiểm tra đánh giá hướng vào năng lực, chú ý nhận xét, tư vấn, phản biện, mức độ thể hiện năng lực, phẩm chất học sinh. Đặc biệt, cách đánh giá mới, không xếp loại học tập theo các mức giỏi, khá, trung bình, yếu, không so sánh học sinh này với học sinh khác nhằm khuyến khích được các em tự nỗ lực vươn lên, góp phần đáng kể giảm áp lực điểm số, căn bệnh thành tích trong giáo dục. Vậy làm thế nào để hình thành cho cho học sinh sự phát triển đúng đắn lâu dài về phẩm chất, năng lực theo Thông tư số 30/TT-BGD&ĐT về việc đánh giá học sinh tiểu học ? Để làm tốt nội dung trên đòi hỏi người giáo viên phải thực sự có cái nhìn sâu rộng, sự linh động sáng tạo, ứng xử thích hợp đối với từng đối tượng học sinh, để có thể dẫn dắt các em từ chỗ chưa có ý thức phải thực hiện theo sự nhắc nhở và cuối cùng đă có ý thức chuyển sang tự giác học tập, sinh hoạt. Là một người giáo viên Tiểu học trực tiếp giảng dạy lớp 4, tôi xác định rõ trọng trách, xem mục tiêu nâng cao chất lượng giáo dục học sinh phát triển năng lực, phẩm chất cho HS trong điều kiện xã nhà trường thuộc địa bàn còn khó khăn, là vấn đề không đơn giản nó khiến bản thân tôi trăn trở, chọn đề tài nghiên cứu: "Giải pháp hình thành năng lực, phẩm chất cho HS lớp 4 theo Thông tư số 30/TT-BGD&ĐT ". 1.2. Điểm mới của đề tài: Trường thuộc địa bàn xã còn khó khăn, Tỉ lệ hộ nghèo, cận nghèo còn nhiều, một bộ phận phụ huynh mãi làm ăn chưa quan tâm đến việc học tập của con em, phần nào ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục các em học sinh. Điểm mới của đề tài là: - Giúp HS có kỹ năng giao tiếp nhằm hình thành và phát triển năng lực và phẩm chất theo hướng tích cực giúp HS tự tin sáng tạo trong việc tìm tòi, khám phá tri thức.
  3. - Tạo được sự chuyển biến tích cực về nhận thức cho phụ huynh trong công tác giáo dục học sinh. Có mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh thông qua việc thiết lập kênh thông tin điện tử: Bằng điện thoại, gmail để trao đổi các thông tin kịp thời về công tác giáo dục học sinh đối với các phụ huynh, hộ gia đình đi làm ăn xa. Hình thành thói quen cho phụ huynh thường xuyên quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi để học sinh học tập. - Phối hợp với giáo viên bộ môn tạo cho các em môi trường giao tiếp tốt từ đó các em có nền nếp học tập tự giác, tích cực, đồng thời nâng cao chất lượng công tác giáo dục về năng lực, phẩm chất cho học sinh. 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1. Thực trạng: 2.1.1. Thuận lợi: - Ban giám hiệu luôn quan tâm đến chất lượng dạy và học. - Tổ chuyên môn, đoàn thể trong nhà trường luôn tạo điều kiện giúp đỡ hỗ trợ nhiệt tình về mọi mặt. - Cơ sở vật chất của trường đảm bảo cho việc dạy và học: Lớp học rộng rãi, thoáng mát, bàn ghế đầy đủ đúng quy cách phù hợp cho các em học sinh. - Thông qua cuộc họp phụ huynh Nhà trường đã chỉ đạo GVCN triển khai Thông tư 30 đến tận từng phụ huynh để cùng phối kết hợp trong giáo dục và đánh giá học sinh. - Bản thân nhiệt tình trong công tác, hết lòng vì học sinh thân yêu. - Một số phụ huynh đã quan tâm đến việc học tập của con em mình. Công tác xã hội hóa giáo dục được phát triển. - Lớp 4A là lớp được Nhà trường mạnh dạn đăng ký học theo mô hình VNEN từ lớp 2 lên đây là một thuận lợi cho việc hình thành các năng lực, phẩm chất để các em phát triển toàn diện. - Phần lớn học sinh ngoan ngoãn, biết yêu thương đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong học tập.
  4. 2.1.2. Khó khăn: * Về học sinh - Thực tế trong năm học 2015- 2016, lớp 4A do tôi phụ trách còn một số em ý thức học tập chưa cao: Học sinh đến lớp không đúng giờ, quên mang dụng cụ học tập, chưa tập trung chú ý trong giờ học, chưa hợp tác trong nhóm gây ảnh hưởng đến việc học tập cũng như nề nếp của lớp. -Nhiều em còn rụt rè, chưa mạnh dạn tự tin; còn thụ động trong học tập và sinh hoạt chung. Một số em chưa biết cách diễn đạt, trình bày, ứng xử có phần còn mang tính “ tuỳ tiện ”. Một số ít em tiếp thu bài còn chậm nhưng chưa dám tìm kiếm sự giúp đỡ của bạn, của cô giáo về những điều mình chưa biết. * Về phụ huynh - Phần lớn các em là con nhà nông dân, một số gia đình khó khăn mãi làm ăn nên phụ huynh không có thời gian quan tâm đến việc học tập của con cái. - Địa bàn học sinh ở rộng dẫn đến ảnh hưởng không ít đến việc đi lại, học hành của con em nhất là mùa mưa bão, việc phối kết giữa GV và phụ huynh cũng có phần khó khăn. 2.1.3. Điều tra khảo sát, thống kê một số kĩ năng: * Khảo sát nội dung: “Thảo luận nhóm” qua quan sát HS thực hành thảo luận nhóm trong một số tiết Toán, Tiếng Việt, Khoa học. Năng lực hợp tác nhóm Chưa biết cách lắng nghe, hay tách TSHS Biết cách hợp tác, chia sẻ ra khỏi nhóm, không chia sẻ. SL % SL % 27 14 51,9 13 48,1 * Khảo sát về chất lượng môn Toán- Tiếng Việt đầu năm học: Môn Giỏi Khá TB Yếu SL % SL % SL % SL %
  5. Toán 4 14,8 8 29,6 11 40,7 4 14,8 Tiếng Việt 5 18,5 9 33.3 9 33,3 4 14,8 Từ những thực trạng trên là giáo viên chủ nhiệm lớp tôi đã băn khoăn, tìm tòi để tìm ra những giải pháp nhằm hình thành năng lực, phẩm chất của học sinh lớp mình phụ trách. Với mong muốn được góp một phần kinh nghiệm của mình vào việc giáo dục một số năng lực, phẩm chất cho học sinh theo Thông tư 30/Bộ GDĐT là điều thực sự cần thiết. 2.2. Các giải pháp: 2.2.1. Tổ chức điều tra sơ khảo về tình hình thực tế qua phụ huynh, tiếp cận tạo niềm tin: Ngay từ đầu năm học khi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 4A, bản thân đã trực tiếp điều tra tình hình thực tế, sơ khảo về tình hình mọi mặt để nắm mặt mạnh, mặt yếu của lớp mình phụ trách. Trong lớp có bao nhiêu học sinh con gia đình nghèo, gia đình khó khăn, con công nhân, con nông dân Từ đó có cơ sở để phân loại các biện pháp giáo dục. Đối với những học sinh nghèo, học sinh gặp hoàn cảnh khó khăn thì luôn kết hợp với nhà trường, hội cha mẹ học sinh, các ban ngành đoàn thể khác tạo mọi điều kiện giúp đỡ các em về mọi mặt tinh thần cũng như vật chất. Sau khi nhận lớp tôi đã tìm hiểu kỹ từng em thông qua phụ huynh bằng những câu hỏi thông thường như: hỏi tên, tuổi, sở thích, khen ngợi đồ dùng của các em để giúp các em mạnh dạn, tự tin và cảm thấy gần gũi với giáo viên hơn. Nhất là đối với những em nhút nhát, chưa tự tin khi chia sẻ ý kiến trước đám đông. Qua phụ huynh giáo viên còn phải biết thêm về những mặt ưu điểm, khuyết điểm của từng em để phát huy và có biện pháp khắc phục. Tôi luôn tạo ra sự gần gũi với các em trong học tập cũng như trong giao tiếp, vui chơi để phát hiện khả năng nhận thức tư duy ở mỗi em. Thường xuyên theo dõi
  6. để phát hiện học sinh nào chăm học, học sinh nào lười học, em nào trung thực, em nào chưa trung thực. Với những em lười học, tôi thường động viên các em bằng những lời nói nhẹ nhàng, bằng những tuyên dương tán thưởng khi các em chăm học hơn. Với những em chưa trung thực, tôi thường dùng các câu chuyện có tình huống để kể cho các em nghe, cho các em liên hệ giáo dục qua câu chuyện đó. Ví dụ: Với những học sinh thuộc gia đình có hoàn cảnh khó khăn, đầu năm học các em chưa đủ sách vở để học thì giáo viên mượn sách trong tủ sách dùng chung để cho các em học. Với những học sinh còn rụt rè, nhút nhát tôi luôn gần gũi, trò chuyện, trong giờ học thường tạo cơ hội cho các em được bày tỏ ý kiến của mình. 2.2.2. Tìm hiểu về tâm lí, năng lực phẩm chất, kiến thức kĩ năng thông qua giáo viên dạy ở các em ở lớp 4: Ngay từ đầu năm học nhà trường đã có kế hoạch cụ thể trong công tác chuyển giao tiếp nhận học sinh từ lớp dưới. Vào kì thi cuối mỗi năm học Ban giám hiệu trường tiểu học thống nhất và có dự kiến phân công GVCN lớp năm sau tiến hành coi chấm thi nghiệm thu chất lượng của lớp dưới. Tiến hành kiểm tra kiến thức và năng lực của học sinh, qua kiểm tra tôi đã nắm bắt được những học sinh có năng lực nổi trội hoặc còn hạn chế như: Em nào đọc tốt, rõ lưu loát, học sinh nào viết chữ đẹp, em nào nắm chắc về toán, em có kĩ năng tính toán chậm, diễn đạt trong viết văn còn lủng củng Ngoài ra tôi còn gặp giáo viên đã trực tiếp giảng dạy các em để tìm hiểu rõ về tình hình mọi mặt của từng học sinh, để nắm được các mặt mạnh, mặt yếu của từng học sinh, đặc biệt là năng lực của các em. Qua đó, tôi biết được học sinh nào học giỏi, có năng lực nổi trội nào, học sinh nào ngoan, gia đình của học sinh đã quan tâm đến các em để từ đó có biện pháp cụ thể hơn cho lớp mình trong năm học tới.
  7. Ví dụ: Ở lớp 4 có em Đoàn Kim Quý hiện đang là học sinh lớp 4 tôi chủ nhiệm, ở lớp 4 em là học sinh có năng khiếu đặc biệt về môn Mỹ thuật. Thế nhưng em lại học chậm các môn học khác. Hay em Nguyễn Thị Thùy Nhung ở lớp 3 em có năng lực quản lý tốt, mấy năm liền làm lớp trưởng từ lớp 1- 3, em Nguyễn Thị Thu Hà có năng khiếu nổi trội là kể chuyện hay và hát hay Qua việc nắm bắt tình hình của từng học sinh, giáo viên lên kế hoạch đặt ra mục tiêu cụ thể cho từng học sinh của lớp mình để giúp các em vừa học tốt vừa phát huy được thế mạnh của mình. 2.2.3. Xây dựng kế hoạch, nề nếp nội quy lớp học : Từ việc điều tra sơ khảo đã nắm được mặt mạnh, mặt yếu của lớp từ đó có biện pháp giáo dục thích hợp: Tổ chức cho lớp bầu ra Hội đồng tự quản của lớp, Hội đồng tự quản phải là người có học lực khá giỏi, đối xử hoà đồng với bạn bè, mạnh dạn, nhanh nhẹn, nhiệt tình trong công việc được giao, có khả năng điều hành, tự quản lớp hoạt động tốt. Xây dựng lớp có nề nếp tốt tức là tạo cho các em học sinh có năng lực tự quản tốt, vì vậy ngay từ đầu năm học giáo viên chủ nhiệm phải lên kế hoạch cho cả năm học, từng tháng, từng tuần dựa trên kế hoạch của nhà trường. Xây dựng được nề nếp tự quản, bầu chọn được Hội đồng tự quản của lớp gồm: 1 Chủ tịch Hội đồng, 2 Phó Chủ tịch, 5 trưởng ban phụ trách theo các ban: Ban học tập, văn nghệ, sức khỏe, đối ngoại, thư viện. Sau khi bầu xong, giáo viên họp Hội đồng tự quản và các trưởng ban để phân công quán triệt rõ nhiệm vụ cho từng em. GVCN cùng Hội đồng tự quản và các ban xây dựng các nội quy của lớp cụ thể, rõ ràng cho cả năm học. Ngoài ra, giáo dục các em phải: “Nói lời hay, làm việc tốt”, “Gọi bạn xưng mình”. Thường xuyên giáo dục các em có tính tự giác, chấp hành tốt nội quy của lớp, của trường. Muốn các em thực hiện tốt, nghiêm túc thì người giáo viên chủ nhiệm lớp phải thực sự gương mẫu về mọi mặt, phải là: “Tấm gương sáng cho học sinh noi theo”, nói phải làm, đề ra phải thực hiện và khen chê đúng mực. Vì học
  8. sinh tiểu học các em đang ở lứa tuổi nhỏ nên giáo dục nghiêm khắc nhưng cởi mở gần gũi độ lượng, luôn vị tha đối với học sinh biết nhận lỗi và sửa lỗi, tuyệt đối không trù ém sĩ nhục học sinh. Trong học tập không những chú trọng rèn luyện cho học sinh bằng nhiều hình thức khác nhau mà còn chú trọng khâu nề nếp ngay từ đầu năm như vào lớp thuộc bài, lên lớp hiểu bài, trật tự nghe giảng trong giờ học, trong lớp Ban học tập kiểm tra bài tập về nhà của các bạn trong tổ Vì nề nếp tốt là cực kì quan trọng góp một phần lớn quyết định kết quả học tập của học sinh. Chính vì thế ngay từ đầu năm học, giáo viên phải quán triệt nề nếp bằng cách: Cho cả lớp học nội quy lớp học, và mọi quy định của giáo viên, nội quy của nhà trường và 5 điều Bác Hồ dạy. Để giúp các em biết đem đúng đồ dùng học tập cho từng buổi học (vì đầu năm phần lớn các em chưa biết đọc chữ ), giáo viên sử dụng các chữ số để đánh dấu vào các cuốn sách, để các em không lẫn lộn. Với phương pháp này giáo viên không mất nhiều thời gian, không tạo áp lực đối với học sinh mà còn giúp cho lớp đi vào nề nếp tốt. Ví dụ: Phía trên tay trái góc bảng ghi rõ lớp, sĩ số học sinh, dưới sĩ số là các kí hiệu ở góc bảng; + , B , V , S , 1, 2, 3, 4 Chỉ vào + là cả lớp trật tự lắng nghe giáo viên giảng bài. Khi viết kí hiệu B là cả lớp lấy bảng con cá nhân làm bài. Giáo viên gõ thước đầu tiên học sinh đưa bảng, thước thứ hai là quan sát, nhận xét bài trên bảng, thước thứ ba xóa bảng. Giáo viên ghi kí hiệu / học sinh đọc cá nhân, // đọc đồng thanh nhóm, /// cả lớp đọc. Giáo viên ghi kí hiệu 1 dành cho học sinh khó khăn trong học tập. Khi viết kí hiệu S là học sinh mở sách, kí hiệu V là lấy vở ra để ghi hoặc làm bài tập tại lớp. Sau khi học sinh làm xong thì giáo viên xoá các kí hiệu đó, học sinh sẽ cất sách hoặc vở đi.
  9. Kí hiệu 1, 2, 3, 4 là nhắc nhở mỗi tổ khi chưa nghiêm túc trong giờ học. Cùng trong một lớp nhưng các tổ luôn thi đua với nhau, nếu tổ nào có một em đi học muộn hoặc nghỉ học không có giấy xin phép của cha mẹ các em thì xét thi đua tổ đó đứng sau các tổ không có em nào vi phạm. Muốn động viên phong trào thi đua thì giáo viên chủ nhiệm phải công minh, tuyệt đối không thiên vị theo cảm tính, từ đó gây lòng tin với các em. Không những giáo dục học sinh có nề nếp tốt trong giờ học, trong lớp mà còn thường xuyên giáo dục các em có nề nếp tốt trong mọi hoạt động, sinh hoạt ngoài giờ. Ví dụ: Bắt đầu có trống báo là các em có mặt đầy đủ ở lớp để lớp trưởng, lớp phó, tổ trưởng kiểm tra việc chuẩn bị bài ở nhà sau đó các em ngồi vào truy bài dưới sự chỉ đạo của lớp trưởng, tổ chức cho các em đi vào nề nếp truy bài, tuy giáo viên không có mặt ở lớp các em vẫn làm tốt. Nhưng cũng không phải phó mặc cho cán bộ lớp, giáo viên chỉ nghe lớp trưởng báo cáo kết quả chuẩn bị bài của các em mà ngoài 5 phút kiểm tra đột xuất 1, 2 bài trong mỗi tổ. Áp dụng biện pháp này đỡ tốn thời gian, không chiếm mất giờ dạy mà còn rèn cho học sinh tính tự giác cao, đồng thời hạn chế đùa nghịch của các em khi chưa vào học. 2.2.4. Phân loại đối tượng học sinh trong lớp, đưa ra các biện pháp cụ thể để giáo dục học sinh: Căn cứ vào tình hình của lớp sau một thời gian học tập, tiến hành phân loại đối tượng học sinh trong lớp để biết có bao nhiêu học sinh tốt, có bao nhiêu học chưa tốt. Để có biện pháp giáo dục các em về mặt nào, môn nào để còn kịp thời bồi dưỡng nâng cao trình độ đồng đều của lớp. Những em yếu, chậm tiến bộ thì xếp các em ngồi vị trí giáo viên dễ tiếp cận, xếp một em học tốt ngồi bên cạnh, giao nhiệm vụ cho em kèm bạn yếu qua từng tiết học, bài học trong mọi giờ học. Đồng thời cũng tiện cho giáo viên theo dõi hướng dẫn học sinh học tập và theo dõi kết quả học tập của các em qua từng bài
  10. học. Đặc biệt cần chú ý phát triển tư duy nâng cao kiến thức bồi dưỡng học sinh có năng lực học tập tốt. Bên cạnh đó, giáo viên thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt cho các em hát tập thể, chơi các trò chơi dân gian để giúp các em càng gần nhau hơn, thân thiện cùng nhau hơn, giúp các em phát huy khả năng giao tiếp, ứng xử tình huống dễ dàng hơn. Giáo viên gặp gỡ phụ huynh thường xuyên để tìm hiểu thêm về hoàn cảnh riêng của từng em, từ đó có cách giúp đỡ cho phù hợp. Đồng thời kêu gọi sự phối hợp chặt chẽ giữa phụ huynh và giáo viên trong việc xây dựng thời gian biểu học ở nhà, nhắc nhở việc chuẩn bị đồ dùng học tập trước khi đến lớp, kiểm tra bài làm, bài học ở nhà cho hoàn chỉnh. Đối với học sinh cá biệt, giáo viên cần phải tăng cường việc gặp gỡ, trao đổi thường xuyên với phụ huynh để nắm rõ nguyên nhân, từ đó tìm biện pháp khả thi nhất để giúp đỡ em nhiều hơn. Chú ý khai thác điểm tốt dù nhỏ nhất để khích lệ, động viên, khen thưởng kịp thời, gây sự chú ý, ngưỡng mộ của các bạn trong lớp, tạo niền tin, để các em thấy được việc học là quan trọng, là tương lai sau này của một đời người, là niềm hy vọng của gia đình và xã hội, từ đó các em sẽ có ý thức hơn và chuyển hướng rõ rệt. Điều tối kỵ nhất là đừng nhìn các em với cái nhìn gay gắt, và không nên nhớ hoài những thói hư, tật xấu của các em, với cái tâm của một người thầy, của một người mẹ hãy mở rộng tấm lòng vị tha với các em hơn mới thật sự cảm hóa các em dần hoàn thiện hơn. Đối với những em gia đình gặp hoàn cảnh khó khăn, giáo viên cần có sự quan tâm đặc biệt hơn, tham mưu với lãnh đạo nhà trường với Ban đại diện CMHS hỗ trợ về vật chất, động viên về tinh thần tạo điều kiện cho các em được tham gia học tập tốt, ngoài ra giáo viên cần phải trao đổi với phụ huynh động viên cho các em đi học chuyên cần, không bỏ dở nữa chừng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào. Không chỉ quan tâm đến học sinh cá biệt mà một khâu quan trọng trong công tác chủ nhiệm là giáo viên cần phải quan tâm đến những em tốt, những em có
  11. năng khiếu bẩm sinh như vẽ đẹp, hát hay, kể chuyện tốt cử tham gia các phong trào nhà trường hay địa phương tổ chức vừa giúp các em phát huy được khả năng vừa được điểm phong trào cho lớp, cho trường. Trong giảng dạy, giáo viên phải dự kiến các tình huống sư phạm có thể xảy ra và cách ứng xử với học sinh. Thực hiện công tác giáo dục toàn diện thông qua việc kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Thường xuyên liên hệ trao đổi thông tin hai chiều với phụ huynh hoặc đến nhà để trao đổi tình hình học tập của học sinh. Lớp đã xây dựng được các nhóm học tập để giúp đỡ nhau như: Đôi bạn cùng tiến, Nhóm học tập tự quản Qua đó thường xuyên kiểm tra động viên khuyến khích các em bằng phong trào hội hoa học tốt. 2.2.5. Xây dựng các mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh và giữa học sinh với học sinh: * Xây dựng mối quan hệ thầy- trò: Trước đây, quan hệ thầy, trò là quan hệ chịu ơn- ban ơn; bề trên- kẻ dưới; giảng giải- ghi nhớ. Ngày nay, quan hệ này được thay bằng quan hệ phân công-hợp tác. Thầy thiết kế-trò thi công. Thầy giao việc-trò làm. Mỗi lời thầy nói ra phải là một “lệnh” (một lời giao việc). Do vậy, mọi yêu cầu tôi đưa ra, học trò phải thi hành thật nghiêm. Ngay từ đầu, tôi yêu cầu học trò phải cố gắng làm cho đúng. Nếu chưa đúng thì phải làm lại cho đúng mới thôi. Đúng là đúng từ việc làm, nghiêm là nghiêm trong việc làm chứ không phải ở thái độ khắt khe, gay gắt. Quan hệ cơ bản nhất của tôi và học trò là quan hệ hợp tác làm việc: tôi giao việc- học trò làm; tôi hướng dẫn- học trò thực hiện. Khi giao việc, tôi chỉ nói một lần, nhưng chỉ nói khi lớp trật tự. Với cách làm này, tự nhiên thầy sẽ trở nên nói ít, học trò sẽ làm nhiều. Làm việc như thế nào thì phẩm chất, năng lực sẽ kèm theo như thế ấy. Làm đến nơi đến chốn thì ý thức kỉ luật cũng đến nơi đến chốn. Hành vi của giáo viên sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tâm lí cũng như sự hình thành tính cách của trẻ. Vì vậy, khi lên lớp, tôi luôn chú ý đến cả cách đi đứng, nói năng, cách ăn mặc, cách cầm sách, chữ viết, thái độ, để
  12. học trò noi theo. Không vì bất cứ lí do gì mà tôi cho phép mình cẩu thả hoặc xuề xòa, qua loa trước mặt học sinh. Khi học sinh nào làm bài chưa đúng, tôi yêu cầu học sinh đó phải làm lại chứ không phê phán ngay. Tôi giúp đỡ, hướng dẫn học sinh làm lại ngay tại lớp. Khi có học sinh mắc sai lầm, thiếu sót, tôi luôn cố gắng kiềm chế và tôn trọng học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ các em sửa chữa. Tôi không bao giờ có những lời nói, cử chỉ xúc phạm các em. Ở tuổi này, lòng tự trọng của các em rất cao, chỉ một lời nói xúc phạm sẽ làm tan nát tâm hồn trẻ thơ. Thậm chí có em sẽ oán hận, căm ghét thầy cô, bỏ học và không bao giờ trở lại lớp học nữa cho dù có nhiều người đến nhà vận động. Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm lớp, tôi biết rằng có những em học yếu hoặc có hôm không học bài, làm bài nhưng lỗi không phải hoàn toàn là do các em. Có em ham chơi nên quên học bài, có em do bị mất căn bản từ các lớp dưới. Nhưng cũng có em học yếu, hoặc không học bài làm bài là do những điều kiện khách quan. Gia đình của các em đâu phải lúc nào cũng đầm ấm, hạnh phúc; đâu phải em nào cũng may mắn dược bố mẹ, ông bà động viên trong mỗi bước học tập. Và có biết bao nhiêu bố mẹ phải lo làm thuê, làm mướn kiếm sống hoặc vì ăn chơi cờ bạc hay ốm đau bệnh hoạn, nên không để ý gì đến việc học của con cái, thậm chí các em còn bị mắng chửi, bị đánh đập Những sóng gió đó đã tác động đến tâm lí trẻ thơ, cản trở việc học tập của các em. Nếu như giáo viên không biết được những nguyên nhân đó thì rất dễ nổi giận đùng đùng, rồi la mắng, trừng phạt các em. Điều đó rất bất lợi cho quan hệ thầy-trò. Vì vậy, đứng trước một học sinh quậy phá, hay lơ đãng không chịu hợp tác làm bài, tôi luôn bình tĩnh chờ đến hết buổi học gặp riêng các em để hỏi cho rõ nguyên nhân. Lần đầu các em vi phạm, tôi nhẹ nhàng nhắc nhở. Nếu lần thứ hai, các em vẫn tái phạm, tôi phải đến nhà tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp giúp đỡ, giáo dục các em. Hàng ngày, luôn khích lệ và biểu dương các em kịp thời, ca ngợi những ưu điểm của các em nhiều hơn là phê bình khuyết điểm. Tôi cố tìm ra những ưu điểm
  13. nhỏ nhất để khen ngợi động viên các em. Nhưng trong khi khen, tôi cũng không quên chỉ ra những thiếu sót để các em khắc phục và ngày càng hoàn thiện hơn. Khi nói chuyện, khi giảng, cũng như khi nghiêm khắc phê bình lỗi lầm của học sinh, luôn thể hiện cho các em thấy tình cảm yêu thương của một người thầy đối với học trò. Theo qui luật phản hồi của tâm lí, tình cảm của thầy trước sau cũng sẽ được đáp lại bằng tình cảm của học trò. Lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của người thầy luôn có sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hóa học sinh. “Lớp học thân thiện” chỉ có được khi người thầy có tấm lòng nhân hậu, bao dung, hết lòng vì học sinh thân yêu của mình. Có một người thầy như vậy thì chắc chắn học sinh sẽ chăm ngoan, tích cực và ham học, thích đi học. * Xây dựng mối quan hệ bạn bè: Trong cuộc sống của mỗi con người, ngoài những người thân trong gia đình ra, ai cũng cần có bạn bè để chia sẻ. Học sinh Tiểu học cũng vậy, nếu các em có nhiều bạn bè thân thiết trong lớp thì các em sẽ hợp tác vui vẻ với nhau và sẽ giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Em học giỏi sẽ giúp những em học yếu; ngược lại, em học yếu cũng dễ dàng nhờ bạn giúp đỡ mình học tập mà không phải e ngại, xấu hổ (Học thầy không tày học bạn). Nhưng trong thực tế, một lớp học thường xuất hiện một số em chia bè phái, phân biệt giàu nghèo, hay nói xấu hoặc châm chọc nhau. Những em nữ thì hay rỗi hay hờn giận. Còn các em nam thì hăm he đánh nhau, trả thù nhau. Tuy các em chưa gây ra chuyện gì nghiêm trọng nhưng nó vẫn ảnh hưởng xấu đến tình cảm bạn bè và chất lượng học tập của lớp. Là một giáo viên chủ nhiệm, tôi luôn quan tâm đến vấn đề này. Xây dựng được mối quan hệ bạn bè đoàn kết, gắn bó thì tôi sẽ xây dựng được nề nếp lớp học, tiến tới xây dựng môi trường học tập thân thiện. Từ môi trường học tập thân thiện đó, chất lượng học tập của lớp chắc chắn sẽ được nâng cao. Để xây dựng mối quan hệ bạn bè thân thiết, đoàn kết, gắn bó, sẵn sàng giúp đỡ nhau trong học tập, tôi luôn tạo ra các hoạt động, các vấn đề đòi hỏi sự hợp tác của nhiều học sinh. Cách làm cụ thể như sau:
  14. - Trong mỗi tiết học, tôi thường xuyên chia nhóm ngẫu nhiên. Tiết học này, các em chung nhóm với bạn này, nhưng tiết sau, các em lại chung nhóm với bạn khác. Lúc đầu có em chưa chịu, tuy ngồi chung nhóm nhưng có em lại quay mặt ra chỗ khác, hoặc ngồi im không tham gia, ai muốn làm gì thì làm; có nhóm lại cãi nhau, không ai chịu làm nhóm trưởng hoặc đùn đẩy nhau không chịu ghi kết quả thảo luận vào phiếu, dẫn đến không hoàn thành nhiệm vụ. Trước tình trạng đó, tôi tiến hành đánh giá kết quả của từng nhóm và lấy kết quả đó chung cho tất cả các thành viên của nhóm. Do đó, những em khá, giỏi buộc phải tích cực. Còn những em không tích cực hợp tác, cho ngồi riêng một mình và phải làm toàn bộ công việc của một nhóm. Bị ngồi một mình nên không thể hoàn thành công việc. Cứ như vậy, dần dần việc hợp tác của học sinh trong lớp đã được cải thiện. - Khuyến khích học sinh tự viết ra những điều em chưa đồng ý về việc làm, cách cư xử của lớp trưởng, lớp phó hoặc của một bạn nào đó trong lớp chứ không nói xấu, không xa lánh bạn. Căn cứ vào những điều các em viết ra, nếu là những điều tốt thì tôi đọc cho cả lớp nghe rồi tuyên dương ngay trước lớp. Còn những điều các em phê bình thì tôi phải điều tra nắm rõ đúng hay sai. Sau đó mới góp ý riêng với những học sinh bị bạn phê bình, yêu cầu các em phải sửa chữa. - Khi có chuyện xích mích giữa em này với em kia, tôi kịp thời can thiệp không để mâu thuẫn kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến tình bạn. Tôi gặp gỡ trao đổi riêng với từng học sinh hoặc nhóm học sinh để biết rõ đầu đuôi. Sau đó phân tích rõ ai đúng, ai sai. Ai sai thì phải nhận lỗi và xin lỗi bạn. Sau đó giảng hòa và bắt tay nhau vui vẻ trở lại. - Đầu năm học, tôi thỏa thuận với cả lớp rằng nếu trong lớp mình có bạn nào đau ốm nằm viện thì cả lớp sẽ quyên góp tiền để mua quà đến thăm bạn, động viên bạn an tâm chữa bệnh. Khi bạn khỏi bệnh, những học sinh giỏi sẽ giúp đỡ bạn học tập để theo kịp chương trình. Vì vậy, trong năm học vừa qua, lớp tôi có 2 em bị bệnh nặng phải nằm viện dài ngày nhưng khi hết bệnh, các em được bạn bè giúp đỡ nên đã nhanh chóng theo kịp chương trình cùng với cả lớp.
  15. - Để tạo dựng cho các em một tình bạn bền đẹp với những kỉ niệm sâu sắc của tuổi học trò, tôi tổ chức sinh nhật cho học sinh ngay tại lớp học trong giờ ra chơi. Những em có ngày sinh trùng vào ngày thứ bảy, chủ nhật thì sẽ được tổ chức vào sáng thứ bảy. Hình thức tổ chức do các em trong ban cán sự quyết định. Nhưng chủ yếu chỉ là múa hát, là những lời chúc mừng và một món quà nhỏ khoảng vài chục ngàn đồng do cả lớp đóng góp. Có rất nhiều em không nhớ ngày sinh của mình. Bởi các em chưa bao giờ được cha mẹ tổ chức sinh nhật, chưa bao giờ được nhận một món quà mang ý nghĩa sâu sắc. Vì vậy, khi được cả lớp tổ chức sinh nhật, nhiều em rất xúc động. 2.2.6. Vận dụng tốt mô hình dạy học VNEN là con đường hình thành một số năng lực và phẩm chất cho học sinh tốt nhất. 2.2.7. Thực hiện tốt khấu đánh thường xuyên và cuối kỳ, cuối năm cho học sinh theo Thông tư 30/Bộ GD ĐT giúp học sinh biết được kịp thòi những hạn chế của mình về phẩm chất, năng lực từ đó có những điều chỉnh theo hướng tích cực. 2.2.8. Kết hợp với giáo viên bộ môn và tổng phụ trách Đội: - Kết hợp với giáo viên bộ môn: Việc hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất cho học sinh được trải nghiệm qua tất cả các môn học, ngoài môn Toán, Tiếng Việt như Âm nhạc, Mĩ thuật, Thể dục . Vì vậy tôi đã kết hợp với giáo viên bộ môn rèn các nề nếp cho các em. Qua từng giáo viên bộ môn tôi nắm bắt, tìm hiểu về kiến thức, năng lực và phẩm chất của từng học sinh được sát hơn trong tất cả các môn học khác như: Âm nhạc, Mỹ thuật, Đạo đức, Tự nhiên xã hội Vào tiết sinh hoạt của tuần cuối tháng tổ chức cuộc họp giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn để trao đổi về kiến thức, năng lực, phẩm chất của từng học sinh, qua đó giáo viên nắm rõ từng đối tượng học sinh mình được khách quan
  16. hơn. Cùng với giáo viên chủ nhiệm đưa ra những hình thức, biện pháp hay để giáo dục học sinh lớp mình được hiệu quả hơn. Phối hợp với giáo viên bộ môn trong các tiết học hoạt động ngoài giờ lên lớp, thể dục, tôi tổ chức cho các em chơi các trò chơi như: làm phóng viên; sắm vai xử lí các tình huống phòng tránh bị xâm hại, từ chối các chất gây nghiện, bày tỏ thái độ đối với người bị nhiễm HIV/AIDS, và đóng vai xử lí các tình huống trong môn Đạo đức. Thông qua các hoạt động này, các em còn được hình thành và rèn luyện nhiều kĩ năng sống cần thiết. Căn cứ vào phiếu điều tra đầu năm, tôi nắm được khả năng của từng em nên tôi phân công vai diễn, múa hát hoặc giao việc phù hợp với từng em, khuyến khích động viên các em tự tin bộc lộ năng khiếu của mình. Nhờ vậy, các tiết học chính khóa trở nên sôi nổi, các em rất hào hứng tham gia. Thông qua các hoạt động vui chơi, các em được “làm”, “được trải nghiệm” như trong cuộc sống thực, điều đó sẽ giúp các em lĩnh hội kiến thức và rèn luyện kĩ năng sống một cách nhẹ nhàng, nhưng lại hiệu quả. - Kết hợp với tổng phụ trách Đội: Để công tác chủ nhiệm lớp được tôt giáo viên chủ nhiệm phải kết hợp chặt chẽ với tổng phụ trách đội. Giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên theo dõi và nắm bắt kịp thời các kế hoạch của Đội để tổ chức các họat động sinh hoạt tập thể và vui chơi thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp cho các em như: - Tổ chức cho học sinh ôn luyện kiến thức, kĩ năng bằng các trò chơi như: Hái hoa dân chủ, Thi tìm hiểu về An toàn giao thông, Nội dung thi được tôi soạn bằng chương trình powerPoint nên gây được sự thích thú, hào hứng cho học sinh mỗi lần tham gia. - Tổ chức các buổi họp lớp, làm đồ dùng học tập và làm báo tường, vẽ tranh chào mừng các ngày lễ lớn. - Hướng dẫn các em làm bình hoa, cắt gấp hoa để trang trí góc học tập và làm một số đồ chơi đơn giản để trưng bày hoặc để tặng người thân bạn bè. Dựa trên
  17. hướng dẫn ở báo Chăm học, tôi tập chung cả lớp lại và hướng dẫn các em làm việc theo nhóm. Các em cùng làm, giúp đỡ nhau làm việc. Nhờ thường xuyên tổ chức các hoạt động sinh hoạt tập thể và các trò chơi cho cả lớp nên các em trở nên rất tự tin, rất năng động sáng tạo. Và điều quan trọng là tôi đã thực sự xây dựng được một môi trường học tập thân thiện, học sinh tích cực. Sĩ số của lớp tôi luôn đảm bảo, chất lượng học tập của học sinh ngày càng nâng cao. hoạt động của đội để thực hiện có hiệu quả các hoạt động do Đội tổ chức như: Tham gia các hội thi văn nghệ, làm báo tường, vui tết trung thu, tham gia các trò chơi v.v Phối hợp giáo viên TPT Đội tổ chức cho học sinh xem phim tài liệu kỉ niệm các sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước như: Kỉ niệm ngày thành lập Đảng, Cách mạng tháng Tám, Kỉ niệm ngày quốc khánh, ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, ngày giải phóng miền Nam, Những đoạn phim tài liệu này lấy trên mạng internet rồi kết nối với máy chiếu, chiếu lên cho học sinh xem. Tham mưu Liên Đội hỗ trợ các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn vươn lên học tập tốt; Liên Đội có kế hoạch tạo điều kiện giúp đỡ thông qua các hoạt động quyên góp như: Vòng tay bè bạn, Kế hoạch nhỏ, Áo ấm đến trường, Vì người nghèo 2.2.9. Phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh làm tốt công tác giáo dục học sinh: Tổ chức họp phụ huynh đầu năm, thông báo kế hoạch dạy học và các hoạt động giáo dục trong năm học của nhà trường, lớp của mình chủ nhiệm. Tổ chức thảo luận về các hoạt động của lớp, ký cam kết các nội dung thực hiện như ATGT, ATTH, An toàn trong mùa mưa Bão, Phòng chống các tệ nạn XH và phối hợp giáo dục học sinh v.v. Thông báo cho phụ huynh về nội dung Thông tư 30/BGD&ĐT về đánh giá học sinh tiểu học để biết và phối hợp tốt trong công tác giáo dục con em.
  18. * Đối với học sinh có phụ huynh ở nhà làm ăn gần: Giáo viên chủ nhiệm phải giữ mối quan hệ thường xuyên với phụ huynh học sinh để nắm thông tin về học sinh và qua phụ huynh trao đổi thêm về kết quả học tập của học sinh, về đạo đức tác phong để gia đình cùng cộng tác trong việc giáo dục, nhắc nhở, động viên các em trong học tập và sinh hoạt. Trong cuộc họp phụ huynh đầu năm, tôi đã đề ra yêu cầu để phụ huynh cùng rèn nề nếp cho học sinh như: - Hằng ngày, kiểm tra sách vở của các em. - Nhắc nhở con học và làm bài tập đầy đủ. - Chuẩn bị sách vở và đồ dùng học tập cho con theo thời khoá biểu. - Giáo dục con ý thức gọn gàng, ngăn nắp khi học tập, vui chơi. - Sinh hoạt điều độ, đúng thời gian biểu, tránh tình trạng vừa học vừa chơi. - Thường xuyên trao đổi với giáo viên chủ nhiệm về tình hình học tập của con qua điện thoại hoặc qua sổ liên lạc. Ngoài ra giáo viên chủ nhiệm phải vận động tuyên truyền trong phụ huynh học sinh phù hợp. Tuỳ theo các điều kiện, hoàn cảnh, gia cảnh của mỗi học sinh mà giáo viên chủ nhiệm có phương pháp tuyên truyền, vận động thuyết phục. Để công tác tuyên truyền, vận động có hiệu quả đòi hỏi giáo viên phải tìm hiểu gia cảnh, hoàn cảnh, các điều kiện phục vụ khác có liên quan như điều kiện kinh tế, vị thế và quan hệ xã hội, quan hệ xóm làng, thân tộc Điều đó giúp cho giáo viên có sự thấu hiểu sâu hơn về phụ huynh học sinh để giáo viên có đồng cảm, tạo dựng được sự thân thiện, từ đó lời nói của giáo viên sẽ có tính thuyết phục hơn và họ sẽ dễ dàng nghe theo và tạo điều kiện, động viên con em mình trở lại trường. * Đối với học sinh có phụ huynh đi làm ăn xa phải thiết lập kênh thông tin liên lạc với phụ huynh qua điện thoại, Gmail, Facebook, thư từ - Giáo viên chủ nhiệm chủ động thu thập số điện thoai, địa chỉ gmail, facebook của từng phụ huynh học sinh trong lớp thông qua cuộc họp phụ huynh, ghi vào sổ chủ nhiệm hoặc sổ tay cá nhân của chủ nhiệm.
  19. - Liên lạc bằng điện thoại, hoặc nhắn tin qua gmail đối với các phụ huynh đi làm ăn xa nhà để trao đổi tình hình và thông báo kết quả học và rèn luyện của học sinh theo từng tháng từng kì. - Giáo viên chủ nhiệm thường xuyên liên lạc nắm bắt các dịp phụ huynh về quê để đến nhà trao đổi về tình hình học tập của con em mình. Kết quả đạt được: Cuối năm học 2015-2016, nhờ việc áp dụng các biện pháp trên, lớp tôi đã chuyển biến rõ rệt về nề nếp, chất lượng học tập cũng như các năng lực và phẩm chất của các em: - Duy trì tốt sĩ số: 27/27em, tỉ lệ 100%; - Phẩm chất, năng lực đánh giá Đạt: 27/27 em, tỉ lệ 100%; - Kiến thức, kĩ năng các môn học Hoàn thành: 27/27 em, tỉ lệ 100%; - Lớp đạt danh hiệu: “lớp học thân thiện”, “lớp tiên tiến xuất sắc”. - Nhìn chung các em hoang nghịch, chưa chăm học nay đều biết nghe lời, ý thức học tập tốt. Trong các đợt kiểm tra, lớp tôi đều được khen và lớp có nền nếp ổn định sớm và hiệu quả công tác chủ nhiệm tốt của trường. Số liệu khảo sát sau khi đã thực hiện: Học tập Kỷ luật Vệ sinh Tốt Chưa tốt Tốt Chưa tốt Tốt Chưa tốt 27 0 27 0 27 0 3. KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa, phạm vi ứng dụng của đề tài: 3.1.1 Ý nghĩa của đề tài: Làm công tác chủ nhiệm lớp 4 ở trường Tiểu học có một vị trí đặc biệt quan trọng, vì lao động của giáo viên chủ nhiệm là lao động sáng tạo không ngừng, đòi hỏi phải toàn diện: sáng tạo trong soạn giảng, trong tổ chức các hoạt động học tập, vui chơi, trong sinh hoạt tập thể và đặc biệt là trong các biện pháp giáo dục phẩm chất, năng lực và rèn luyện kiến thức, kĩ năng cho học sinh; phải khéo léo và tinh
  20. tế để duy trì và vận động phụ huynh tích cực tham gia vào công tác giáo dục. Bởi vậy, chỉ có những giáo viên thực sự tâm huyết với nghề, thực sự thương yêu học sinh của mình thì mới có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ để nâng cao hiệu quả trong công tác chủ nhiệm lớp 4 ở địa bàn khó khăn và đã đánh dấu một bước đột phát đi lên trong sự nghiệp giáo dục của xã nhà nói riêng và toàn ngành nói chung. Đạt được kết quả trên, tôi đã áp dụng các giải pháp cụ thể sau: Giải pháp 1: Tổ chức điều tra sơ khảo về tình hình thực tế qua phụ huynh, tiếp cận tạo niềm tin. Giải pháp 2: Tìm hiểu về tâm lí, năng lực phẩm chất, kiến thức kĩ năng thông qua giáo viên dạy ở bậc học mầm non. Giải pháp 3: Xây dựng kế hoạch, nề nếp nội quy lớp học. Giải pháp 4: Phân loại đối tượng học sinh trong lớp, đưa ra các biện pháp cụ thể để giáo dục học sinh. Giải pháp 5: Xây dựng các mối quan hệ giữa giáo viên với học sinh và giữa học sinh với học sinh. Giải pháp 6: Kết hợp với giáo viên bộ môn và tổng phụ trách Đội. Giải pháp 7: Phối hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh làm tốt công tác giáo dục học sinh. 3.1.2. Phạm vi áp dụng của đề tài: Với sáng kiến này, bản thân tôi đã phổ biến với tất cả giáo viên trong nhà trường, và được áp dụng đạt hiệu quả cao. Đồng thời cũng được nhà trường đánh giá cao, phổ biến nhân rộng trong toàn đơn vị. Qua đây tôi cũng muốn đề tài được ứng dụng rộng rãi cho tất cả giáo viên chủ nhiệm ở các Trường tiểu học thuộc địa bàn khó khăn trong toàn huyện nói riêng và các Trường tiểu học thuộc vùng khó khăn của tỉnh Quảng Bình nói chung.