Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi

doc 15 trang binhlieuqn2 07/03/2022 4593
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_ky_nang_song_cho.doc

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5-6 tuổi

  1. * Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động vui chơi. - Như chúng ta đã biết ở trẻ mẫu giáo hoạt động vui chơi giữ vai trò chủ đạo, thông qua hoạt động này bộc lộ rõ nét những hành vi tốt và không tốt. Vì vậy tôi luôn uốn nắn và sử sai ngay cho trẻ trong khi chơi đặc biệt qua các trò chơi ở góc phân vai. Ví dụ: Qua góc chơi “Bán hàng” thông qua trò chơi này ngoài việc trẻ hiểu được công việc của người bán hàng và mua hàng trẻ còn phải biết thưa gửi lễ phép. Giai đoạn đầu trẻ còn chưa mạnh dạn trong khi chơi, tôi nhập vai làm người bán hàng khi cháu mua hàng tôi chủ động hỏi trẻ “Bác ơi bác mua thứ gì nào? Trẻ nói mua rau - trả tiền nè, tôi phải sửa ngay cho trẻ. Khi mua hàng con phải hỏi bác ơi bao nhiêu tiền một mớ rau, bán cho tôi một mớ ạ, nếu trẻ đã biết thưa gửi lễ phép tôi sẽ gắn cho trẻ một bông hoa vào áo và cuối ngày nhận xét trước lớp với hình thức này các cháu rất thích. - Hay thông qua góc chơi “trọng tâm là” tạo hình: Tôi thường xuyên sưu tầm những đồ dùng, những phế liệu, những lá cây khô, dây trang kim, nhũ màu, màu nước Để trẻ tự tạo nên những bức tranh, những con vật. Từ đó trẻ có những kỹ năng cầm kéo và cắt khóe léo, kỹ năng tô màu, kỹ năng vẽ, kỹ năng phân công công việc cho bạn trong nhóm mình. Ví dụ: Bạn tô màu này, tôi cắt hoặc xé cái kia - Thông qua hoạt động vui chơi: Tôi đưa kỹ năng sống hợp tác cho trẻ: Ở độ tuổi này trẻ bắt đầu quan tâm đến bạn trong nhóm. Tình bạn ổn định bắt đầu nảy sinh. Chúng sẵn sàng chia sẻ với bạn và tình bạn trở nên quan trọng với trẻ. Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. Ở kỹ năng này tôi sử dụng trò chơi để dạy trẻ: Ví dụ: Ở trò chơi đóng vai. Với góc chơi xây dựng trong chủ đề “Giao thông” trong khi xây dựng thì tất cả trẻ trong nhóm phải cùng nhau thảo luận, phân công công việc cho nhau và cùng làm công việc được giao cuối cùng trẻ hoàn thành công trình đã xây dựng. Đó là một cách hợp tác cùng làm việc Ví dụ: Trong góc chơi học tập. - Mỗi trẻ sẽ được phân công theo nhóm để nhận nhiệm vụ: bạn nào đồ chữ, bạn nào xếp chữ bằng hột hạt, bạn nào học thẻ số, thẻ chữ .Từ đó trẻ sẽ học và làm việc cùng nhau theo nhóm và biết tuân thủ theo mệnh lệnh của nhóm trưởng. - Với hoạt động này tôi thường xuyên tổ chức cho trẻ chơi các trò chơi như: Cô giáo, bác sỹ, xây dựng doanh trại, xây dựng ngã tư đường phố Các trò chơi đóng kịch, Cây tre trăm đốt, hai anh em, quả bầu tiên Thông qua đó để giáo dục những kỹ năng sống cho trẻ, bởi trong các trò chơi xã hội này trẻ sẽ được hình thành và phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo. 8
  2. * Giáo dục kỹ năng sống qua góc thực hành kỹ năng sống cho trẻ. Ngoài ra tôi còn xây dựng góc thực hành kỹ năng sống cho trẻ chơi thường xuyên như: Cách đóng mở cửa, lấy và uống nước, cách gắp bằng các loại kẹp, quét rác trên sàn, cách rót nước bằng bình lọ miệng tròn to, cách sâu dây qua các đối tượng có khuyết nhỏ, cách đan nong mốt {5 nan}, cách tự tết tóc cho mình, cho bạn. - Đây là cơ hội tốt nhất để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, vì vậy tôi đã thường xuyên tổ chức cho trẻ các trò chơi mang tính lành mạnh để trẻ được tham gia học tập và vui chơi. 2.2.3. Biện pháp 3: Biện pháp phát triển kỹ năng giao tiếp cho trẻ. Cách giao tiếp không chỉ quan trọng trong những năm trẻ đi học mà còn rất quan trọng đối với cuộc sống sau này của trẻ. Kỹ năng giao tiếp là một kỹ năng nền tảng để giúp trẻ nhận biết giá trị sống và hình thành kỹ năng sống. Vì thế cần quan tâm và giúp trẻ một cách tự nhiên từng bước một trong suốt chiều dài phát triển nhân cách của trẻ. * Kỹ năng trẻ giao tiếp với bạn bè. Lớp học chính là một thế giới thu nhỏ của xã hội chúng ta ngày nay, là nơi đa văn hóa, đa tính cách và cũng đa sở thích. Mô hình này tạo cơ hội cho giáo viên có thể dạy cho trẻ học cách chấp nhận và có cơ hội để khám phá những sở thích, những mối quan tâm chung của nhau. Để giúp trẻ phát triển kỹ năng chơi với các trẻ khác tôi tạo môi trường cho trẻ giao tiếp với nhau và tạo tình huống cho trẻ tự giải quyết. Và tôi đưa ra “tiêu chí” không tranh giành đồ chơi với bạn. trong tiêu chí này tôi lên kế hoạch rèn cả lớp nói chung, cứ vào các buổi chiều bình bầu và nhận xét buổi chơi, tôi cho cả lớp nhận xét xem trong giờ chơi bạn nào còn tranh giành đồ chơi thì bạn đó sẽ không được cắm cờ, cuối tuần bạn nào có nhiều cờ sẽ được bé ngoan, ngoài ra trong các giờ chơi, giờ đón trả trẻ, trẻ nào có biểu hiện hành vi sai trái là tôi giải thích và sửa ngay cho trẻ, việc làm đó rất tốt đối với trẻ vì trẻ biết được điều gì nên làm và điều gì không nên làm và nhân cách sống của trẻ sẽ được phát triển toàn diện hơn. Ngoài ra tôi còn sưu tầm một số câu chuyện, bài thơ mang tính giáo dục, giúp trẻ thấy các nhân vật trong câu truyện, bài thơ khi giao tiếp với nhau như thế nào? Bài thơ: “Biết cảm ơn xin lỗi” Cảm ơn xin lỗi Dù với ai cũng phải Ai giúp cho cái gì Xin lỗi cho đàng hoàng Nhớ cảm ơn ngay đi Muốn trở thành bé ngoan Lỡ làm điều sai trái Phải biết làm như vậy. - Tính cách mỗi trẻ mỗi khác, có những trẻ hoạt bát, hiếu động nhưng cũng có những trẻ chậm chạp, thụ động hay quá nóng nảy Vì thế giáo viên cần phải biết rõ tính cách của từng trẻ để có thể cho các trẻ chơi với những người bạn thích hợp 9
  3. với cá tính nhằm tránh sảy ra những va chạm về tính cách. Vì vậy trước khi chơi tôi thường cho trẻ đọc bài thơ: “Giờ chơi của bé” Giờ chơi đến rồi Chờ bạn cùng chơi Bạn lấy đồ chơi Cô thấy cô mừng Tôi ra trước nhé Cô khen ngoan thế. Ngoài ra tôi còn dạy trẻ “Giao tiếp” bằng mắt và nở một nụ cười thân thiện, tự nhiên, dạy trẻ phải luôn luôn giữ lời hứa khiến cho buổi nói chuyện trở nên thật thoải mái thật chân thành khi tham gia những hoạt động vui chơi ở * Kỹ năng trẻ chào hỏi khi giao tiếp với người lớn tuổi. Như ở phần đặt vấn đề tôi đã nêu các cháu hầu hết chưa có các kỹ năng, giao tiếp, kỹ năng chào hỏi lí do phụ huynh đều là thuần nông và điều quan trọng họ chưa có khái niệm dạy kỹ năng cho trẻ, mà chủ yếu là nuông chiều với suy nghĩ đơn giản là trẻ nhỏ chưa biết gì, chiều nó chút cũng không sao. Nhưng điều đó sẽ tạo nên những hành vi và nhận thức sai lệch của trẻ mà dần dần sẽ biến thành thói quen khó thay đổi. Vì vậy đối với trẻ người lớn cần tập cho trẻ những lời nói lễ phép và tự nhiên, không quá màu mè và hình thức, cũng không được phép cộc lốc và xuồng xã. Điều này trẻ sẽ học được một cách hiệu quả thông qua cách giao tiếp và ứng sử của bố, mẹ, người thân trong gia đình, cô giáo và người khác. Chúng ta sẽ không thể kiểm soát được khi người lớn trong gia đình nói năng thô lỗ và không có hành vi lịch sự tối thiểu. Trong xã hội hiện nay với công nghệ tiên tiến, phát triển không ngừng về mọi mặt, thì những kỹ năng giao tiếp, chào hỏi tối thiểu lại mất dần đi. Và tôi quyết định đưa kỹ năng chào hỏivà kỹ năng giao tiếp vào những giờ đón, trả trẻ: Ví dụ: Thời gian đầu nhiều trẻ chưa có kỹ năng chào hỏi và giao tiếp với cô cùng bạn bè, tôi chủ động chào trẻ trước “cô chào bạn Bảo Ngọc” Thì lúc đó trẻ sẽ biết đáp lại câu “Con chào cô ạ’ và tôi nhắc trẻ con chào bố, mẹ đi để vào lớp với cô nào. Hoặc khi trẻ đang chơi mà có khách đến lớp tôi nhắc trẻ “ các con chào bác, bà đi nào” cứ như vậy dần dần trẻ có thói quen chào cô, chào bố mẹ và chào khách, khi đến lớp, khi ra về. Còn với trẻ chưa có kỹ năng giao tiếp nhiều với cô, với bạn tôi thường xuyên gần gũi trẻ hơn, trò chuyện với trẻ nhiều hơn về những người thân của trẻ, về thế giới xung quanh từ đó trẻ sẽ mạnh dạn hơn khi tiếp xúc và giao tiếp với cô, với bạn bè và người khác. Ngoài ra tôi còn sưu tầm những bài thơ, câu truyện, bài hát có nội dung giáo dục về lễ giáo với nội dung cụ thể như: Bài thơ: Che mưa cho bạn, Phải là hai tay, Cảm ơn xin lỗi, và phô tô gửi cho phụ huynh để phụ huynh nắm được và giúp trẻ học thuộc các bài thơ đó. Qua đó giúp trẻ có những hành vi và kỹ năng tốt qua các bài thơ, câu truyện “Bà ốm, yêu 10
  4. bà, Thương ông, bó hoa tặng cô, bé mai đến trường Tôi cũng tự sáng tác được một số bài thơ giáo dục kỹ năng sống cho trẻ như bài thơ. “Bé ngoan” Bé thật là ngoan Chào các bạn yêu Mỗi khi đến lớp Đến lớp thật vui Bé khoanh tay chào Học bao nhiêu điều Chào cô chào mẹ Thích ơi là thích. Ngoài ra tôi còn cho trẻ tham gia trò chơi đóng vai để trải nghiệm những kỹ năng chào hỏi và giao tiếp, tạo tình huống cụ thể để giúp trẻ giải quyết và chọn cách giao tiếp với người lớn cho phù hợp. 2.2.4. Biện Pháp 4: Giáo dục trẻ kỹ năng sống thông qua các hoạt động khác trong ngày. - Ngoài hoạt động chung, hoạt động vui chơi ra tôi còn hướng dẫn dạy trẻ kỹ năng sống thông qua các hoạt động khác như: - Trong giờ đón trả trẻ: Tôi cùng các giáo viên khác trò chuyện với trẻ, giáo dục trẻ kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tự cất giầy dép, ba lô đúng nơi quy định ngoài ra tôi còn dạy trẻ biết chào hỏi, biết nói lời xin lỗi, biết nói cảm ơi, không nói leo khi người khác nói, không tự tiện lấy đồ và sử dụng đồ của người khác - Trong giờ thể dục sáng: Dưới sân trường tôi kết hợp kỹ năng đi lên, xuống cầu thang cho trẻ đi đúng theo bước chân, chân nào trước, chân nào sau, đi theo hàng lối, không chen lấn xô đẩy bạn - Trong giờ vệ sinh: Tôi dạy trẻ các kỹ năng tự phục vụ như: Rửa mặt, rửa tay bằng xà phòng, cách trải tóc, cách gấp quần áo và đi vệ sinh đúng nơi quy định - Trong giờ ăn cũng vậy tôi cùng các giáo viên khác dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ những kỹ năng tự lao động phục vụ, rèn tính tự lập như Biết tự đi lấy bát thìa theo số lượng của tổ mình và biết được lần lượt ngày trực nhật của mình theo tổ, khi ăn, biết ăn uống lịch sự, không nói chuyện trong khi ăn, và chỉ ăn uống tại bàn ăn của mình, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, biết ăn hết xuất, không làm rơi vãi khi ăn, khi ăn nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, biết tự dọn, cất bát thìa đúng nơi quy định, biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn không làm ảnh hưởng đến người khác . Ngoài ra trước những giờ ăn tôi thường lồng ghép các bài hát, bài thơ “Giờ ăn, và bài thơ “Bé ơi nhớ nhé” do tôi tự sáng tác: Dạy lồng ghép kỹ năng vệ sinh và giờ ăn cho trẻ. Bé ơi nhớ nhé Có hạt cơm rơi Hễ đến giờ ăn Bé nhặt vào đĩa Rửa tay cho sạch Rồi lau vào khăn Nếu mà tay bẩn Bạn nào ăn nhanh 11
  5. Không vệ sinh đâu Được cô khen đấy Bé nhớ ăn rau Khi mà đứng dậy Cho người khỏe mạnh Kê ghế sát tường Ăn thịt, ăn cá Là một bé ngoan Bé lớn nhanh hơn Bé ơi nhớ nhé Khi ngồi xúc cơm Cầm thìa tay phải -Trong giờ hoạt động ngoài trời: Tôi đưa kỹ năng sống tự tin: Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi. Ví dụ: Cô tổ chức cho 2 đội chơi trò chơi “Kéo co” ở trò chơi này cháu thực hiện đúng luật chơi. Mỗi đội luôn tự tin mình sẽ chiến thắng và tìm mọi cách động viên khích lệ trong nhóm cố gắng có ý chí vươn lên. 2.2.5. Biện pháp 5: Xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đưa vào các chủ đề. Để dạy kỹ năng sống cho trẻ đạt hiệu quả ngay từ đầu năm tôi đã phối hợp với giáo viên trên nhóm lớp xây dựng kế hoạch và thống nhất đưa vào các chủ đề, các hoạt động ở lớp, tùy thuộc vào từng chủ đề, từng thời điểm để lựa chọn nội dung tích hợp giáo dục kỹ năng sống để dạy trẻ cho phù hợp nhằm đạt hiệu quả cao. * Ví dụ: * Ở chủ đề: “Trường mầm non” Tôi đã lựa chọn kỹ năng giao tiếp như: Chào hỏi, tạm biệt, cảm ơn, xin lỗi, lễ phép với người lớn, tôn trọng bạn bè, vui vẻ thân thiện, lắng nghe ý kiến, chia sẻ thông tin, hòa thuận với các bạn, giúp đỡ bạn khi cần thiết, cùng bạn hoàn thành công việc * Chủ đề gia đình: Tôi dạy trẻ những kỹ năng ứng sử phù hợp với những người gần gũi xung quanh: Lễ phép với người lớn, quan tâm nhường nhịn em nhỏ, giúp đỡ bố mẹ những việc vừa sức, biết trò chuyện lễ phép, thân mật, chơi vui vẻ với bạn, không quậy phá làm ồn, nhận biết và thể hiện cảm xúc, chia sẻ đồng cảm - Ngoài ra ở nhánh bản thân tôi lựa chọn kỹ năng tự phục vụ như: Tự mặc, cởi quần áo, cách sử dụng nhà vệ sinh đúng cách, vệ sinh cá nhân, cách ăn uống, mặc quần áo phù hợp với thời tiết, sống gọn gàng ngăn nắp. biết bảo vệ bản thân trước những tình huống nguy hiểm, không chơi những nơi mất vệ sinh, không nhận quà người lạ khi chưa được người thân cho phép, biết kêu cứu khi gặp nguy hiểm, biết một số thông tin về bản thân như, tên, tuổi, sở thích và sử dụng lời nói rõ ràng, mạch lạc để bày tỏ cảm xúc, nhu cầu của bản thân. 12
  6. * Ở chủ đề: “Nghề nghiệp” Ở chủ đề này tôi thường lồng ghép các bài thơ câu đố để trẻ hiểu ý nghĩa của các nghề từ đó trẻ biết tuân thủ sự phân công, phối hợp với bạn bè để hoàn thành công việc chung, khả năng sáng tạo, diễn tả ý tưởng, kỹ năng sử lý tình huống. Ví dụ: Khi tổ chức một tiết học âm nhạc với bài dạy vận động múa minh họa cho bài hát “ Chú bộ đội” tôi tổ chức cho trẻ dưới hình thức làm đồ dùng minh họa cho bài hát như súng để vác trên vai như chú bộ đội, mũ tai bèo để trẻ đội Từ đó trẻ có ước mơ về nghề trong tương lai, yêu thích các nghề của bố mẹ *Chủ đề: “Phương tiện giao thông” Dạy trẻ kỹ năng tuân thủ một số quy định giao thông khi đi trên đường, những hành vi văn hóa nơi công cộng như: Đi nhẹ, nói khẽ, không chen lấn xô đẩy nhau * Chủ đề: “Tết và mùa xuân” Dạy trẻ kỹ năng giao tiếp, lịch sự, lễ phép, yêu thiên nhiên, trồng và chăm sóc cây xanh, bảo vệ môi trường. * Chủ đề: “Quê hương - đất nước” Dạy trẻ kính yêu Bác Hồ, quan tâm đến những di tích lịch sử, địa danh, cảnh đẹp, lễ hội của quê hương, đất nước, giữ gìn bảo vệ môi trường. 2.2.6. Biện pháp 6. Tuyên truyền, phối kết hợp với các bậc phụ huynh cùng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. * Hiểu rõ được vai trò của các bậc phụ huynh cũng góp phần không nhỏ trong việc giáo dục các kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm khi tổ chức họp phụ huynh tôi đã đưa sáng kiến và ý tưởng về ý nghĩa giáo dục kỹ năng sống của mình áp dụng vào trẻ. Và thống nhất với các phụ huynh về những biện pháp giáo dục ở nhà và khi họp phụ huynh giữa năm tôi đã nêu tiêu chí nào trẻ đã thực hiện được và làm được hay chưa làm được, còn những tiêu chí nào chưa làm được tôi nêu ra cuộc họp để cùng bàn luận và cùng uốn nắn trẻ ngay và kịp thời. Đặc biệt những phụ huynh ít quan tâm đến con cái, tôi tìm cách để gặp và trao đổi về thành tích học tập của cháu ở lớp và đồng thời hỏi thăm về nề nếp sinh hoạt, sở thích của cháu ở nhà. Với việc làm kiên trì đó tôi đã tác động việc học của cháu ở lớp cũng như việc rèn nề nếp ở nhà, vì tôi thấy rằng một số trẻ có khó khăn trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn trong nhóm lớp lại có thể hình thành mối liên kết thân thiết mới trong môi trường gia đình của trẻ. Chính vì vậy cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc bằng cách tạo các mối liên kết bạn bè tại gia đình, cha mẹ không nên bực bội khi trẻ đi chơi với bạn khác và tham gia các buổi Ví dụ: Một số kỹ năng phối hợp cùng cô giáo dạy trẻ kỹ năng cất dép, kỹ năng cất quần áo. Vậy muốn trẻ làm tốt được những kỹ năng này tôi phối hợp với phụ huynh hướng dẫn và quan sát trẻ khi con ở nhà. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và năng khiếu bẩm sinh của trẻ bên cạnh đó cha mẹ cần dạy trẻ từ từ để trẻ hiểu và cha mẹ chính là tấm gương sáng để trẻ noi theo. 13
  7. Vì vậy việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đạt kết quả tốt thì phải biết kết hợp hài hòa các biện pháp trên và không thể thiếu một trong những biện pháp đó, bên cạnh đó là ý thức trách nhiệm và tình yêu thương của cô giáo đối với trẻ. * Kết quả đạt được. Như vậy, qua một năm đi sâu và thực hiện nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả và tiến hành đề tài một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi tôi đã tìm ra những biện pháp tích cực phù hợp để nâng việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ và điều đó đã cho được những kết quả sau. - Về phía giáo viên. + Tự tin, sáng tạo hơn trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ + Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tạo uy tín tiềm năng đối với phụ huynh và với trẻ, được phụ huynh tín nhiệm. + Mạnh dạn giám nghĩ, giám làm, khắc phục mọi khó khăn để giúp trẻ có được những kỹ năng sống ngay từ khi còn nhỏ. - Đối với phụ huynh: + Phụ huynh thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua bảng thông tin dành cho phụ huynh, bảng đánh giá trẻ ở lớp + Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái đã gần gũi thường xuyên chia sẻ với con hơn, ít la mắng trẻ, phân việc cho trẻ, hướng dẫn trẻ tự làm những công việc phục vụ bản thân như: Trẻ tự đeo ba lô, tự vào lớp + Cha mẹ cảm thấy hài lòng với kết quả của con mình đạt được và đã có sự quan tâm bằng việc ủng hộ giáo viên những nguyên vật liệu để giáo viên và trẻ làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho trẻ ở lớp - Về phía trẻ. + 30/30 trẻ đạt 100% trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích, khơi dậy tính tò mò, phát triển trí tưởng tượng và óc sáng tạo, năng động, mạnh dạn, tự tin. + 30/30 trẻ đạt 100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập, nhận thức, kỹ năng vận động thô, vận động tinh thông qua các hoạt động hàng ngày trong cuộc sống của trẻ. + 30/30 trẻ đạt 100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội, kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp, chung sống hòa bình, và tuyệt đối không sảy ra xúc phạm và bạo hành trẻ + 100% trẻ được giáo dục, chăm sóc nuôi dưỡng tốt, được bảo vệ sức khỏe, được bảo đảm an toàn, phòng bệnh, được theo dõi cân đo. 14
  8. + Trẻ đi học đều hơn, đạt tỷ lệ chuyên cần từ 90% trở lên và ít gặp khó khăn khi đến lớp, có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự chuẩn bị khăn và số lượng bát trong nhóm Biết trải bạt, kê bàn, trải chiếu, gấp chăn + 30/30 trẻ đạt 100% trẻ luôn có kết quả tốt trong học tập thông qua bảng đánh giá ở lớp sau mỗi giai đoạn và cuối độ tuổi, qua kểm tra đánh giá chất lượng sau mỗi tiêu chí, đối với trẻ như sau. * Bảng kết quả so sánh có đối chứng. Đầu năm Cuối năm Số trẻ/ Tỷ lệ Số trẻ/ Mức độ nội dung khảo sát Tỷ lệ % Tổng số % Tổng số 1.Kỹ năng giao tiếp, chào hỏi 16/30 53.3% 29/30 96.6% 2. Kỹ năng tự lập, tự phục vụ. 18/30 60% 30/30 100% 2.Kỹ năng hợp tác, hoạt động theo nhóm 13/30 43.3% 28/30 93.35 4. Trẻ mạnh dạn tự tin 13/30 43.3% 28/30 93.3% 5. Kỹ năng nhận thức 20/30 66.6% 30/30 100% 6. Kỹ năng vận động 17/30 56.6% 30/30 100% 7. Kỹ năng thích nghi 12/30 40% 27/30 90% 8. Kỹ năng vệ sinh 20/30 66.6% 29/30 96.6% 3. Phần kết luận: 3.1. Ý nghĩa của đề tài: Việc dạy cho trẻ các kỹ năng sống là một hoạt động vô cùng quan trọng hằng ngày đối với trẻ, nó không chỉ thỏa mãn được nhu cầu chơi của trẻ mà còn nhằm phát triển các mặt khác của một nhân cách toàn diện, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1, kỹ năng sống và giao tiếp hàng ngày của trẻ. Tôi đã không ngừng tìm tòi và tổ chức các hoạt động dạy kỹ năng sống cho trẻ, kích thích trẻ tham gia hoạt động một cách tích cực. Tôi xây dựng các hoạt động dạy kỹ năng sống cho trẻ vừa mang tính định hướng của giáo viên nhưng vẫn đảm bảo được sự thích thú của trẻ khi tham gia vào hoạt động, trẻ không cảm thấy gò bó và mất đi sự hứng thú. Sau khi đưa ra các biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ tôi thấy trẻ tham gia vào hoạt động một cách tự nhiên, thích thú và sôi nổi hơn, phát huy được tính tích cực ở trẻ và tất cả các trẻ đều có các kỹ năng sống phù hợp với lứa tuổi, trẻ biết suy nghĩ và đặt ra nhiều câu hỏi suy luận lý thú cho cả cô và các bạn khác cùng suy nghĩ trả lời. Cháu cảm thấy mạnh dạn và tự tin hơn rất nhiều trong việc giao tiếp, thói quen lao động tự phục vụ của trẻ cũng tốt hơn, không những thế ở trẻ còn hình thành những phẩm chất tốt như khả năng phối hợp hoạt động với các bạn tốt hơn, khả năng tự kiềm chế, nhường nhịn và biết giúp đỡ bạn. Đó là niềm vui không chỉ 15
  9. dành cho các bậc cha mẹ mà còn là niềm vui lớn của cô giáo mầm non, của những người làm công tác giáo dục. 3.2. Khuyến nghị, đề xuất. - Qua một năm thực hiện đề tài tôi xin đóng góp một số ý kiến như sau: - Để thực hiện tốt công tác chăm sóc giáo dục trẻ, tôi mong được sự giúp đỡ của các cấp lãnh đạo, các đồng nghiệp giúp đỡ tôi về chuyên môn cũng như tạo điều kiện để tôi được học hỏi kinh nghiệm của trường bạn. - Đối với nhà trường: + Mua sắm thêm đồ dùng, đồ chơi trang thiết bị học tập và vui chơi cho cô và trẻ. + Mua sắm thêm giá góc của lớp. - Đối với Phòng giáo dục: + Thường xuyên tổ chức cho giáo viên tham gia các lớp tập huấn do Sở và Phòng GD&ĐT tổ chức. Trên đây là “Một số biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ 5 - 6 tuổi”của tôi, rất mong được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp để tôi ngày càng thực hiện đề tài được tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn! 16