Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng phát triển ngôn ngữ

doc 14 trang vanhoa 9812
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng phát triển ngôn ngữ", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_24_36_thang.doc

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng phát triển ngôn ngữ

  1. 1. PHẦN MỞ ĐẦU 1.1. Lý do chọn đề tài, sáng kiến, giải pháp Như chúng ta đã biết ngôn ngữ luôn có vai trò to lớn trong sự hình thành và phát triển nhân cách của trẻ. “Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tư duy” là công cụ để giúp phát triển tư duy và là phương tiện để giáo dục tình cảm, thẩm mỹ cho trẻ. Trong giáo dục trẻ mầm non hiện nay, chúng ta càng thấy rõ vai trò của ngôn ngữ đối với việc giúp trẻ trở thành những con người phát triển về mọi mặt: đức, trí, thể, mỹ và hình thành những cơ sở ban đầu của nhân cách con người. Vấn đề phát triển ngôn ngữ một cách có hệ thống cho trẻ ngay từ nhỏ là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Trong cuộc sống hiện đại ngày nay, phần lớn các bố mẹ đều bận rộn lo toan cho cuộc sống, thời gian bố mẹ trò chuyện với trẻ để phát triển vốn từ còn ít. Một số cha mẹ của trẻ nhận thức về tầm quan trọng của ngôn ngữ còn hạn chế. Do vậy vốn từ của trẻ em ngày nay phát triển chậm và ít, chủ yếu trẻ được tiếp xúc và phát triển ngôn ngữ thông qua ti vi, phim ảnh chưa được sự chỉ bảo, uốn nắn của người lớn. Để có vốn từ phát triển trước tiên ta phải bắt đầu phát triển ngôn ngữ cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non vì ở lứa tuổi này phát triển vốn từ là giúp trẻ nắm được nhiều từ, hiểu được ý nghĩa của từ, biết sử dụng từ trong giao tiếp. Phát triển từ cho trẻ là quá trình hình thành giúp trẻ làm quen với các từ mới, củng cố vốn từ làm cho vốn từ phong phú. Quá trình này liên quan chặt chẽ với giai đoạn nhận thức tiếp theo của trẻ để hình thành các biểu tượng về thế giới xung quanh Đặc biệt trẻ ở lứa tuổi 24- 36 tháng tuổi, giai đoạn này người ta gọi là giai đoạn tiền ngôn ngữ vì đặc điểm sinh lý ở lứa tuổi này có vùng ngôn ngữ bắt đầu hình thành và phát triển mạnh. Do đó là một cô giáo Mầm non trực tiếp dạy trẻ 24-36 tháng tôi luôn có những suy nghĩ trăn trở làm sao để dạy trẻ phát âm chuẩn, chính xác đúng Tiếng Việt. Vì thế tôi đã dạy trẻ thông qua các môn học khác nhau và dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi qua các hoạt động hàng ngày, từ đó trẻ khám phá hiểu biết về mọi sự vật hiện tượng, về thế giới xung quanh trẻ để phát triển tư duy. Hơn nữa bản thân tôi thấy mình cần phải đi sâu tìm hiểu kỹ vấn đề này để từ đó rút ra nhiệm vụ giáo dục cho phù hợp với yêu cầu phát triển của lứa tuổi. Đối với trẻ nhà trẻ cấu trúc từ chưa hoàn thiện, trẻ thường bắt chước các kết hợp âm, vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và động từ, các loại từ khác nhau và ở độ tuổi này trẻ không chỉ hiểu nghĩa các từ biểu thị các sự vật, hành động cụ thể mà có thể hiểu nghĩa của các từ biểu thị tính chất màu sắc, thời gian và các mối quan hệ. Tuy nhiên mức độ hiểu nghĩa các từ còn hạn chế. Chúng ta cần phải giúp trẻ phát triển mở rộng các từ, biết sử dụng các loại câu bằng con đường giao tiếp thường xuyên. 1
  2. Chính vậy tôi đã chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng phát triển ngôn ngữ” nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ đối với chương trình GDMN hiện nay. 1.2. Điểm mới của đề tài, sáng kiến, giải pháp Đề tài một lần nữa minh chứng cho lý luận đưa ra là khoa học. Thực tiễn bổ sung thêm một số biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ một cách tốt hơn, chất lượng giảng dạy có hiệu quả hơn đối với trẻ 24-36 tháng trong trường mầm non. Các biện pháp tôi đưa ra đều đảm bảo tính mới, tính sáng tạo như: Tôi luôn thay đổi các hình thức gây hứng thú đối với trẻ, phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi hoạt động. Muốn thực hiện tốt điều này đòi hỏi người giáo viên phải tích cực sáng tạo ra cái mới, đồ dùng phải phong phú, tuyên truyền phối hợp với các bậc phụ huynh để phát triển ngôn ngữ cho trẻ, với những điểm mới đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ tốt hơn, hài hòa, toàn diện về các mặt thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, tình cảm - xã hội và thẩm mĩ. 1.3. Phạm vi áp dụng của đề tài, sáng kiến, giải pháp Đề tài nghiên cứu “Một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng phát triển ngôn ngữ” được áp dụng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chăm sóc giáo dục trẻ. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này tôi đã vận dụng đưa vào quá trình giáo dục trẻ trong lớp mình phụ trách và mang lại hiệu quả cao. Đề tài được đồng nghiệp khen ngợi và cùng góp ý. Được hội đồng chuyên môn đánh giá cao và khuyến khích cần nhân rộng đề tài 2. PHẦN NỘI DUNG 2.1.Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu. Là một giáo viên chủ nhiệm lớp, ngay từ đầu năm học tôi luôn quan tâm đến đặc điểm tâm sinh lý cũng như ngôn ngữ giao tiếp của từng trẻ nhằm khám phá, tìm hiểu khả năng giao tiếp bằng ngôn ngữ để kịp thời có những biện pháp giáo dục và nâng cao dần ngôn ngữ cho trẻ. Khi tiếp xúc với trẻ tôi nhận thấy rằng ngôn ngữ của trẻ còn nhiều hạn chế về câu từ, về cách phát âm. Khi trẻ nói hầu hết toàn bớt âm trong các từ, giao tiếp không đủ câu cho nên nhiều khi giáo viên không hiểu trẻ đang nói về cái gì? Cũng có một số trẻ còn hạn chế khi nói, trẻ chỉ biết chỉ tay vào những thứ mình cần khi cô hỏi. Đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc ngôn ngữ trẻ nghèo nàn. Trước thực trạng đó, vào đầu năm học 2017-2018 tôi đã tiến hành điều tra, khảo sát thực tế ở 35 trẻ lớp mình phụ trách và kết quả như sau: 2
  3. Tiêu chí Đạt Chưa đạt Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Khả năng nghe, hiểu ngôn 14/35 40% 21/35 60% ngữ và phát âm Vốn từ 11/35 31,4% 24/35 68,6% Khả năng nói đúng ngữ pháp 10/35 28,6% 25/35 71,4% Khả năng giao tiếp 12/35 34,3% 23/35 65,7% Với kết quả trên, bản thân tôi rất lo lắng và tôi nghĩ rằng mình phải tìm tòi suy nghĩ và nghiên cứu tài liệu để tìm ra biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách có hiệu quả nhất để có thể giúp trẻ tự tin hơn khi giao tiếp với mọi người. Trong quá trình nghiên cứu đề tài tôi gặp phải một số thuận lợi và khó khăn sau: * Thuận lợi: Được sự chỉ đạo sát sao về chuyên môn của phòng giáo dục và sự quan tâm tạo điều kiện giúp đỡ về cơ sở vật chất cũng như chuyên môn của ban giám hiệu nhà trường. Trẻ được phân chia theo đúng độ tuổi. Đa số trẻ đi học rất đều, ăn bán trú 100%. Đồ dùng, đồ chơi phục vụ cho việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ phong phú về màu sắc và hình ảnh, hấp dẫn thu hút trẻ. Phụ huynh luôn tin tưởng và kết hợp với giáo viên để thống nhất sự chăm sóc giáo dục trẻ được tốt. Bản thân tôi luôn tâm huyết với nghề, mến trẻ. * Khó khăn: Về phía trẻ: Vì các cháu bắt đầu đi học nên còn khóc nhiều chưa thích nghi với điều kiện sinh hoạt của lớp nên còn bỡ ngỡ. Mỗi cháu lại có những sở thích khác nhau và cá tính khác nhau. Trí nhớ của trẻ còn nhiều hạn chế, trẻ chưa nhớ hết trật tự của các âm khi sắp xếp thành câu vì thế trẻ thường xuyên bỏ bớt từ, bớt âm khi nói. 60% trẻ phát âm chưa chính xác hay ngọng chữ x-s, dấu ngã - dấu sắc, dấu hỏi - dấu nặng. Về phía phụ huynh: Đa số phụ huynh đều bận công việc nên ít có thời gian trò chuyện với trẻ. Về phía giáo viên: Ở lớp nhà trẻ, thời gian chăm sóc trẻ chiếm đa số nên việc giáo viên chú ý phát triển vốn từ cho trẻ đôi khi còn gặp nhiều khó khăn. 3
  4. * Nguyên nhân của thực trạng Trình độ nhận thức của trẻ trong một lớp không đồng đều( vì có trẻ trong lớp sinh tháng 1-2 nhưng có trẻ trong lớp sinh tháng 10 -11-12). Số tháng tuổi của trẻ chênh lệch nhau về tháng sinh quá xa ở cùng một lứa tuổi sẽ dẫn đến sự chênh lệch về trình độ nhận thức, sự hiểu biết về ngôn ngữ Đặc điểm của trẻ nhà trẻ lứa tuổi 24-36 tháng rất thích được trò chuyện, giao tiếp, thích được nói, nhưng ngôn ngữ, vốn từ của trẻ còn rất hạn chế, còn sử dụng ngôn ngữ thụ động nhiều. Chưa được tác động, kích thích kịp thời để trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. 2.2. Các giải pháp. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ là giáo dục khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ và phát âm chuẩn, phát triển vốn từ, dạy trẻ nói đúng ngữ pháp, phát triển ngôn ngữ mạch lạc, giáo dục văn hóa giao tiếp khi nói. Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển thẩm mỹ, tình cảm, đạo đức. Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ mà trẻ dễ dàng tiếp nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hòa nhập vào xã hội tốt hơn. Chính vì vậy quá trình dạy trẻ tôi đã mạnh dạn áp dụng một số biện pháp dạy trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua một số hoạt động sau: Giải pháp 1: Giáo dục ngôn ngữ thông qua các giờ học a. Thông qua giờ nhận biết tập nói: Đây là môn học quan trọng nhất đối với sự phát triển ngôn ngữ và cung cấp vốn từ vựng cho trẻ. Trẻ ở lứa tuổi 24-36 tháng đang bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hoàn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói không đủ từ, nói ngọng, nói lắp. Cho nên trong tiết dạy cô phải chuẩn bị đồ dùng trực quan đẹp, hấp dẫn để gây hứng thú cho trẻ. Bên cạnh đó cô phải chuẩn bị một hệ thống câu hỏi rõ ràng ngắn gọn trong khi trẻ trả lời cô hướng dẫn trẻ nói đúng từ, đủ câu không nói cộc lốc. Ở hoạt động nhận biết tập nói, trẻ được phát âm nhiều, được nói nhiều và cũng dễ bộc lộ ý tưởng của mình muốn nói, cũng chính hoạt động này cô giáo phát hiện ra những cháu phát âm chuẩn, những cháu phát âm chưa chuẩn để sửa sai kịp thời VD1: Trong bài nhận biết “ Con cá” cô muốn cung cấp từ “ đuôi cá” cho trẻ cô phải chuẩn bị một con cá thật và một con cá giả (được làm bằng bìa) để cho trẻ quan sát. Trẻ sẽ sử dụng các giác quan như: sờ, nhìn, nhằm phát huy tính tích cực của tư duy, rèn khả năng ghi nhớ có chủ đích. Để giúp trẻ hứng thú tập trung vào đối tượng quan sát cô cần đưa ra hệ thống câu hỏi: + Đây là con gì? (Con cá ạ) + Các con nhìn xem cá bơi được là nhờ cái gì mà đang quẫy quẫy đây? (cái đuôi ạ) 4
  5. + Các con ơi, cá đang nhìn chúng ta đấy thế mắt cá nằm ở đâu nhỉ? ( Nằm ở trên đầu cá) + Đố các bạn biết cá sống ở đâu? ( Sống ở dưới nước) + Trên mình cá có cái gì mà lấp lánh thế? ( Có vảy) - Trong khi trẻ trả lời cô phải chú ý đến câu trả lời của trẻ. Trẻ phải nói được cả câu theo câu hỏi của cô. Nếu trẻ nói cộc lốc, thiếu từ cô phải sửa ngay cho trẻ VD2: Bài nhận biết “ xe máy”. Khi vào bài tôi đặt câu đố: “ Xe 2 bánh/ Chạy bon bon/ Máy nổ giòn / Kêu bình bịch”. Trẻ trả lời đó là xe máy, tôi đưa chiếc xe máy cho trẻ xem và hỏi: + Xe gì đây? ( Xe máy ạ) + Xe máy có màu gì? ( Màu đỏ ạ) + Xe máy chạy ở đâu? ( Xe máy chạy ở trên đường ạ) + Xe máy dùng để làm gì ? ( Dùng để chở người ) + Còi xe máy kêu như thế nào? ( Bíp bíp) + Đây là cái gì? ( Cô hỏi từng bộ phận của xe máy và yêu cầu trẻ trả lời) - Cứ như vậy tôi đặt hệ thống câu hỏi từ tổng thể đến chi tiết để trẻ trả lời nhằm kích thích trẻ phát triển tư duy và ngôn ngữ cho trẻ, qua đó lồng liên hệ thực tế giáo dục trẻ về an toàn giao thông khi đi trên đường. b. Thông qua giờ thơ, truyện: Trên tiết học khi cho trẻ làm quen các tác phẩm văn học là phát triển ngôn ngữ nói và còn hình thành phát triển ở trẻ kỹ năng nói mạch lạc mà muốn làm được như vậy trẻ phải có vốn từ phong phú hay nói cách khác là trẻ cũng được học thêm được các từ mới qua giờ học thơ, truyện. Để giờ học thơ, truyện đạt kết quả cao cũng như hình thành gôn ngữ cho trẻ thì đồ dùng phục vụ cho tiết học phải đảm bảo: - Đồ dùng phải đẹp, màu sắc phù hợp đảm bảo tính an toàn và vệ sinh cho trẻ - Nếu là tranh vẽ phải đẹp, phù hợp với câu truyện, phía dưới phải có chữ to giúp cho việc phát triển vốn từ của trẻ được thuận lợi - Bản thân giáo viên phải thuộc truyện, ngôn ngữ của cô phải trong sáng, giọng đọc phải truyền cảm, thể hiện đúng ngữ điệu của nhân vật. VD1: Trẻ nghe câu truyện “ Đôi bạn nhỏ”. Tôi cung cấp vốn từ cho trẻ đó là từ “ Bới đất”. Cô có thể cho trẻ xem tranh mô hình một chú gà đang lấy chân để bới đất tìm giun và giải thích cho trẻ hiểu từ “ Bới đất”. ( Các con ạ, bản năng của những chú gà là mỗi khi đi kiếm ăn các chú phải lấy chân bới đất, đào đất để tìm thức ăn cho mình, khhi kiếm được thức ăn chú gà sẽ lấy mỏ để ăn đấy). Sau khi giải thích tôi cũng chuẩn bị một hệ thống câu hỏi giúp trẻ nhớ được nội dung truyện và từ vừa học: + Hai bạn Gà và Vịt trong câu truyện cô kể rủ nhau đi đâu? (Đi kiếm ăn ạ) + Vịt kiếm ăn ở đâu? ( Dưới ao ) 5
  6. +Thế còn Gà kiếm ăn ở đâu? ( Trên bãi cỏ) + Bạn Gà kiếm ăn như thế nào? ( Bới đất tìm giun) + Khi hai bạn đang kiếm ăn thì có con gì xuất hiện đuổi bắt Gà con? (Con Cáo) + Vịt con đã cứu Gà con như thế nào? ( Gà nhảy phốc lên lung Vịt, Vịt bơi ra xa) + Qua câu chuyện con thấy tình bạn cảu hai bạn Gà và Vịt ra sao? ( Thương yêu nhau) + Nếu như bạn gặp khó khăn thì các con phải làm gì? ( Giúp đỡ bạn) - Cô kể 1-2 lần cho trẻ nghe giúp trẻ hiểu thêm về tác phẩm và qua đó lấy nhân vật để giáo dục trẻ phải biết yêu thương nhau và giúp đỡ bạn trong lúc gặp khó khăn VD2: “ Cây bắp cải” tôi muốn cung cấp cho trẻ từ “ Sắp vòng quanh”. Tôi chuẩn bị một cây bắp cải thật để cho trẻ quan sát, trẻ phải được nhìn, sờ, ngửi, và qua vật thật tôi sễ giải thích cho trẻ từ “ sắp vòng quanh”. Tôi giải thích cho trẻ: Các con nhìn này đây là cây bắp cải mà hàng ngày mẹ vẫn mua về để nấu cho các con ăn đấy. các con nhìn xem lá bắp cải rất to có màu xanh và khi cây bắp cải càng lớn thì lá cuộn thành vòng tròn xếp chồng lên nhau, lá non thì nằm ở bên trong được bao bọc bằng những lớp lá già ở ngoài. Bên cạnh đó tôi cũng chuẩn bị câu hỏi để trẻ trả lời: + Cô vừa đọc cho các con nghe bài thơ gì? ( Cây bắp cải ạ) + Cây bắp cải trong bài thơ được miêu tả đẹp như thế nào? (xanh man mát) + Còn lá bắp cải được nhà thơ miêu tả ra sao? (Sắp vòng quanh ạ) + Búp cải non thì nằm ở đâu?( Nằm ở giữa ạ) Như vậy qua bài thơ ngoài những từ trẻ đã biết và cung cấp thêm vốn từ mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú. Ngoài việc cung cấp cho trẻ vốn từ mới thì việc sửa nói ngọng, nói lắp vô cùng quan trọng khi trẻ giao tiếp. Khi áp dụng vào bài dạy tôi luôn chú trọng đến điều này và kịp thời sửa sai cho trẻ ngay tại chỗ. c. Thông qua giờ âm nhạc: - Để thu hút trẻ vào giờ học và giúp trẻ phát triển ngôn ngữ được tốt hơn tôi phải nghiên cứu, sáng tạo những phương pháp dạy học tốt nhất có hiệu quả với trẻ - Đối với tiết học âm nhạc trẻ được tiếp xúc nhiều đồ vật ( Trống, lắc, phách tre, mõ, xắc xô, .và nhiều chất liệu khác) trẻ được học những giai điệu vui tươi kết hợp với các loại vận động theo bài hát một cách nhịp hàng. Để làm được như vậy đó là nhờ sự hiểu biết, nhận thức vốn từ, kỹ năng nhất là sự giao tiếp bằng ngôn ngữ của trẻ được tích lũy và lĩnh hội, phát triển tính nghệ thuật giúp trẻ yêu âm nhạc. - Qua những giờ học hát, vận động theo nhạc, trẻ đã biết sử dụng ngôn ngữ có mục đích, biết dùng ngôn ngữ và động tác cơ bản để miêu tả những hình ảnh đẹp của bài hát. d. Thông qua giờ vận động: 6
  7. - Trong góc vận động của lớp tôi đã sử dụng những thùng bìa để làm thành tàu hỏa cho trẻ chơi. Mỗi thùng làm thành một tòa tàu. Trong khi chơi trẻ có thể vừa chơi vừa kết hợp âm nhạc hát: “ Đoàn tàu tí hon”, “ Tàu vào ga’ - Vận dụng vào phát triển ngôn ngữ cho trẻ, tôi còn phân loại màu xanh, đỏ, vàng của những chiếc vòng để khi trẻ phân biệt màu không bị nhầm lẫn. Khi trẻ chơi với vòng tôi có thể hỏi trẻ giúp ngôn ngữ của trẻ thêm mạch lạc, rõ ràng hơn: + Vòng này có màu gì con? ( Màu đỏ ạ) + Thế còn vòng này có màu gì đây? (màu xanh ạ) + Vòng để làm gì con biết không? ( Để học, để chơi trò chơi ạ) + Con sẽ chơi gì với vòng? ( Con lái ô tô ạ) Giải pháp 2: Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi a. Giờ đón trẻ: - Giờ đón trẻ là lúc cần tạo không khí vui vẻ, lôi cuốn trẻ tới trường, tới lớp cô phải thật gần gũi, tích cực trò chuyện với trẻ. Vì trò chuyện với trẻ là hình thức đơn giản để cung cấp vốn từ cho trẻ và phát triển ngôn ngữ cho trẻ, đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc. Bởi qua cách trò chuyện với trẻ cô mới có thể cung cấp mở rộng vốn từ cho trẻ VD: Cô trò chuyện với trẻ về gia đình của trẻ: + Gia đình con có những ai? + Trong gia đình ai yêu con nhất? + Mẹ yêu con như thế nào? + Buổi sáng ai đưa con đến lớp? + Bố con đưa đi bằng phương tiện gì? - Như vậy khi trò chuyện với cô trẻ tự tin vào vốn từ của mình, ngôn ngữ của trẻ nhò đó mà được mở rộng, phát triển hơn - Ngoài ra trong giờ đón trẻ, trả trẻ tôi nhắc trẻ biết chào ông, bà, bố, mẹ như vậy kích thích trẻ trả lời câu trọn vẹn bên cạnh đó giáo dục trẻ có thói quen lễ phép biết vâng lời. b. Giáo dục ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động góc: - Trong một giờ hoạt động chung trẻ không thể phát triển ngôn ngữ một cách toàn diện được mà phải thông qua các hoạt động khác trong đó có hoạt động góc. Đây có thể coi là một h́nh thức quan trọng nhất, bởi giờ chơi có tác dụng rất lớn trong việc phát triển vốn từ, đặc biệt là tích cực hóa vốn từ cho trẻ. Trong quá trình chơi trẻ có điều kiện học và sử dụng các loại từ khác nhau. Trong trò chơi trẻ luôn gặp những sự vật, hành động mới, trẻ bắt đầu làm quen với các hiện tượng mới tất cả những gì có liên quan đến trẻ đều gọi ra bằng lời nhưng 7
  8. để hiểu đúng một tên gọi đơn giản thì chưa đủ cần phải có sự giải thích tỉ mỉ. Những trò chơi học tập cũng góp phần không nhỏ trong việc phát triển vốn từ cho trẻ VD: Cô nói Trẻ Con mèo Meo meo Con gà trống ò.ó.o VD1: Trò chơi trong góc “ Thao tác vai” trẻ được chơi với em búp bê và khi trẻ chơi sẽ giao tiếp với các bạn bằng ngôn ngữ hàng ngày: + Gì đã cho búp bê ăn chưa? ( Chưa ạ) + Khi ăn gì nhớ đeo yếm để bột không dây ra áo của búp bê nhé! (Vâng ạ) + Ngoan nào mẹ cho búp bê ăn nhé! + Bột vẫn còn nóng lắm để mẹ thổi cho nguội đã! (Giả vờ thổi cho nguội) + Búp bê của mẹ ăn ngoan rồi mẹ cho búp bê đi chơi nhé! (Âu yếm em búp bê) Qua giờ chơi cô không những dạy trẻ kỹ năng sống mà còn dạy trẻ nghe, hiểu giao tiếp cùng nhau và trao cho nhau những tình cảm yêu thương, gắn bó của con người. VD 2: Trong góc “ Hoạt động với đồ vật” ở chủ điểm “ Gia đình” bằng đồ dùng tự tạo đó chính là những chiếc vòng đeo tay, đeo cổ bằng những hạt vòng đã đục sẵn lỗ, tôi đã cho trẻ lấy dây xâu qua lỗ đó và tôi sẽ hỏi trẻ: + Hằng ơi, con đang làm gì vậy? (Con đang xâu vòng ạ) + Con xâu vòng bằng gì đấy? (Con xâu bằng dây xâu ạ) + Khi xâu xong con để sản phẩm của mình nhẹ nhàng vào khay nhé! (Vâng ạ) VD 3: Ở góc “ Bé khéo tay” khi dạy trẻ 1 số phương tiện “ Giao thông” bằng miếng xốp thừa tôi đã tận dụng cắt thành hình ô tô, xe máy để cho trẻ in màu. Trẻ sẽ được in những PTGT đủ màu sắc tạo lên giấy thành sản phẩm của mình một cách nghệ thuật. Tôi thấy trẻ rất khéo léo, chăm chú khi làm. Khi trẻ làm tôi ân cần đến bên trẻ trò chuyện cùng trẻ: + Con đang làm gì vậy? (Con in hình ô tô ạ) + Ô tô của con có màu gì? (Màu đỏ ạ) + Đây là phương tiện gì con có biết không? (Xe đạp ạ) + Xe đạp này có màu gì? (Màu vàng ạ) + Ô tô và xe đạp đi ở đâu hả con? (Trên đường ạ) - Như vậy bằng những đồ chơi tự tạo thông qua hoạt động chơi không những rèn cho trẻ sự khéo léo mà còn góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ. c. Giáo dục ngôn ngữ thông qua hoạt động ngoài trời: Hoạt động dạo chơi thăm quan, trẻ được trực tiếp quan sát các sự vật, hiện tượng phong phú trong cuộc sống, mục đích của dạo chơi thăm quan là mở rộng tầm hiểu biết của trẻ, trên cơ sở đó cung cấp, củng cố một số lượng lớn vốn từ cho trẻ 8
  9. Hàng ngày đi dạo chơi quanh sân trường tôi thường xuyên đặt câu hỏi để trẻ được gọi tên các đồ chơi quanh sân trường như: Đu quay, cầu trượt, bập bênh, . Ngoài ra tôi còn giới thiệu cho trẻ biết cây xanh, cây hoa ở vườn trường và hỏi trẻ: + Cây hoa này có màu gì? (trẻ trả lời màu đỏ) + Thân cây này có to không? (Có ạ) + Cây bàng này rất cao và có lá màu gì? (Màu xanh ạ) + Các con có nhìn thấy con gì đang bay đến không? (Có ạ) + Con gì vậy? (Con chim) + Con chim kêu như thế nào? (Chích chích ) + Giáo dục: Các con nhớ cây xanh rất tốt cho sức khỏe của co người các con không được hái hoa bẻ cành mà phải tưới cây để cây mau lớn nhé! (Vâng ạ) Qua những câu hỏi cô đặt ra sẽ giúp trẻ tích lũy được những vốn mới ngoài ra còn giúp trẻ phát triển ngôn ngữ chính xác, mạch lạc, rõ ràng hơn. Ở lứa tuổi này trẻ nhiều khi hay hỏi và trả lời trống không hoặc nói những câu không có ý nghĩa. Vì vậy bản thân tôi luôn chú ý lắng nghe và nhăc nhở trẻ, nói mẫu cho trẻ nghe và yêu cầu trẻ nhắc lại Giải pháp 3: Tổ chức một số trò chơi phát triển ngôn ngữ cho trẻ - Đối với trẻ nhà trẻ, được phát triển ngôn ngữ thông qua trò chơi là một biện pháp tốt nhất. Trò chơi đã trở thành phương tiện để cung cấp, tích lũy được nhiều vốn từ và trên cơ sở hiểu biết đầy đủ ý nghĩa của những từ đó trẻ biết sử dụng “ số vốn từ” một cách thành thạo. - Qua trò chơi trẻ được giao tiếp mạnh dạn hơn, ngôn ngữ cũng lưu loát hơn, vốn từ của trẻ cũng được tăng lên. Tôi nhận thấy rằng khi trẻ chơi trò chơi xong sẽ gây sự hứng thú lôi cuốn trẻ vào bài học. Như vậy trẻ sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng và thoải mái. - Bản thân tôi đã tìm tòi, tham khảo, đọc những tài liệu sách và tôi thấy rằng trò chơi này thực sự có hiệu quả làm tăng thêm vốn từ cho trẻ, từ đó ngôn ngữ của trẻ ngày càng phong phú. Trò chơi 1: “ Cái gì? Dùng để làm gì? - Mục đích của trò chơi này là tôi muốn trẻ nhận biết được một số đồ dùng quen thuộc và biết tác dụng của những đồ chơi từ đó ngôn ngữ của trẻ cũng được phát triển: * Chuẩn bị: + Đồ dùng để ăn uống( Bát, thìa, cốc, ca, .) + Đồ dùng để mặc (Quần, áo, khăn, mũ, ) + Mỗi trẻ một tranh lô tô đồ dùng khác nhau * Tiến hành: 9
  10. + Tôi cho trẻ ngồi chiếu xung quanh cô, cô nhắc tên đồ dùng nào thì trẻ phải nói nhanh đồ dùng đó dùng để làm gì? Cô nói: + Cái bát dùng để làm gì? (Cái bát đựng cơm) + Cái cốc dùng để làm gì? (Dùng để uống nước) + Cái mũ để làm gì? (Cái mũ để đội) + Cái áo để làm gì? (Cái áo để mặc) Sau khi hỏi trẻ xong tôi vận dụng trò chơi này để rèn luyện sự nhanh nhẹn và tư duy của trẻ. Tô phát cho trẻ một lô tô đồ dúng khác nhau. Tôi yêu cầu trẻ gọi tên đồ dùng và xác định nơi cất đồ dùng đó trong lớp. Sau đó tôi hô: 1,2,3 yêu cầu trẻ chạy nhanh về đúng nơi đồ dùng Trò chơi 2: “ Con muỗi” * Cách chơi: + Cô đứng phía trước trẻ, cô cho trẻ đọc và làm động tác theo cô + Cô cho trẻ đọc từng từng lời một có kèm theo động tác - Khi trẻ chơi tôi nhận thấy tất cả các trẻ đều tham gia đọc cùng cô, có trẻ đọc được cả câu, có trẻ bập bẹ bớt một hai từ. Nhưng qua đó cũng giúp ngôn ngữ của trẻ dần dần được hình thành trọn vẹn hơn Trò chơi 3: “ Trò chuyện về các PTGT quen thuộc”. Qua trò chơi này trẻ sẽ kể được một số phương tiện giao thông quen thuộc như: ô tô, xe đạp, xe máy, tàu hỏa, * Chuẩn bị: + Mô hình các PTGT: ô tô, xe máy, xe đạp, + Tranh, ảnh các loại PTGT + Đàn, đài có thu âm thanh tiếng kêu của các PTGT cho trẻ đoán * Tiến hành: Trong trò chơi này tùy thuộc vào thời gian rảnh rỗi tôi có thể cho trẻ chơi. Có thể là giờ đón trẻ, trả trẻ, giờ chơi buổi chiều tôi có thể đàm thoại với trẻ về các loại PTGT mà trẻ biết như: + Hôm nay, ai đưa con đến trường? + Mẹ (Bố) con đưa đến trường bằng phương tiện gì? + Cô nào đón con vào lớp? + Hôm qua chủ nhật, bố mẹ con có đưa con đi đâu không? + Con đi với ai? + Con đi bằng phương tiện gì? + Khi đi đường con nhìn thấy gì? + Bạn nào đã được đi ô tô rồi? + Ô tô kêu như thế nào? + Khi ngồi trên ô tô phải như thế nào để đảm bảo ATGT? 10
  11. Sau khi đặt những câu hỏi như vậy tôi khuyến khích trẻ kể tên những loại PTGT khác mà trẻ biết. Tiếp tục cho trẻ quan sát mô hình PTGT và cho trẻ nghe âm thanh của PTGT yêu cầu trẻ đoán đó là PTGT nào Trò chơi 4: “Trò chuyện cùng cô”. Qua trò chơi này trẻ được phát âm nhiều, tiếp xúc nhiều với ngôn ngữ mới qua giao tiếp với cô * Tiến hành: Trong ngày tùy tứng thời điểm mà cô dành thời gian vỗ về ôm ấp trẻ, nói chuyện với trẻ: - Khi cho trẻ ăn: + Bạn Lan ăn giỏi nào, con ăn cơm với gì đấy? Con ăn cơm với thịt ạ) + Bạn Dũng ăn được mấy bát cơm rồi? - Khi thay quần áo cho trẻ cô cũng cần nựng trẻ: + Cô Tâm mặc áo đẹp cho Ngọc nhé? (Vâng ạ) + Áo đẹp này ai mua cho con? (Mẹ con ạ) + Con có biết mẹ mua ở đâu không? (Ở cửa hàng ạ) + Con có thích mặc áo này không? (Có ạ) - Khi ngồi chơi cô trò chuyện với trẻ về một chủ đề nào đấy để khơi gợi trẻ được phát âm nhiều: + Bạn Hoa có bàn tay bé xíu trông rất đáng yêu này? + Hàng ngày các con phải làm gì để đôi bàn tay luôn sạch? (Rửa tay ạ) + Thế đôi bàn tay để làm gì các con có biết không? (Để múa, để xúc cơm, để tô màu ạ ) Giải pháp 4: Phối kết hợp với phụ huynh Để vốn từ của trẻ phát triển tốt không thể thiếu được đó là sự góp phần của gia đình. Việc giáo dục trẻ ở gia đình là rất cần thiết tôi luôn kết hợp chặt chẽ với phụ huynh trao đổi thống nhất về cách chăm sóc nuôi dưỡng trẻ và kế hoạch lịch sinh hoạt dạy học cho từng tháng, từng tuần cho phụ huynh nắm bắt được. Vì đây là trẻ nhà trẻ, trẻ bắt đầu tập nói, yêu cầu phụ huynh phải dành nhiều thời gian thường xuyên trò chuyện cùng trẻ như: Hôm nay con đi học cô cho con ăn gì? Đến lớp con có ngoan không? Và phụ huynh nên lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ. Đối với những cháu mới đi học vốn từ của trẻ còn hạn hẹp, hơn nữa trẻ rất hay nói ngọng, nói lắp thì vai trò của phụ huynh trong việc phối hợp với cô giáo trong việc trò chuyện với trẻ là rất cần thiết nó giúp trẻ được vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống của trẻ, trẻ được giao tiếp, được sửa âm, sửa ngọng. - Khuyến khích hoặc tuyên truyền với phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ. Tránh không nói tiếng địa phương, tập cho trẻ nói ở mọi lúc mọi nơi, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngôn ngữ không chính xác 11
  12. - Ngoài ra tôi còn kết hợp với phụ huynh sưu tầm những quyển thơ, truyện có chữ, hình ảnh to rõ nét, nội dung phù hợp với lứa tuổi nhà trẻ để trẻ làm quen. 2.3 Kết quả đạt được Sau khi áp dụng “ Một số biện pháp giúp trẻ 24-36 tháng phát triển ngôn ngữ ” trong cả năm học tôi thấy có những chuyển biến rõ rệt : * Đối với giáo viên: Giáo viên đã hiểu được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ từ đó có kế hoạch cụ thể về việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. * Đối với trẻ: 90 % số trẻ đã mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp với cô và các bạn trong lớp, với mọi người xung quanh. Vốn từ của trẻ đã phong phú hơn rất nhiều so với đầu năm học.Trẻ đã có thể tự đề nghị với cô điều trẻ muốn. Đã có trẻ tự kể lại được với cô một sự việc, hiện tượng vừa xảy ra, có trẻ đã kể lại được một câu chuyện ngắn với sự giúp đỡ của cô cho cô và các bạn nghe. Trẻ đã biết cách sắp xếp trật tự các từ trong câu nên khi trẻ nói trẻ không bớt từ. Trẻ đã phát âm được cả câu trọn vẹn. Khả năng nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của cô đã tốt hơn rất nhiều. Trẻ đã biết cách trình bày có trình tự, chính xác một nôi dung nhất định với cô. Cách diễn đạt lời nói của trẻ đã lưu loát hơn nhiều so với đầu năm học, có trẻ đã có thể kể lại một sự việc mới xảy ra. Kết quả khảo sát cuối năm học 2017 - 2018 Tiêu chí Đạt Chưa đạt Số lượng Tỷ lệ Số ượng Tỷ lệ Khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ và 34/35 97,1% 1/35 2,9% phát âm Vốn từ 31/35 88,6% 4/35 11,4% Khả năng nói đúng ngữ pháp 32/ 35 91,4% 3/35 8,6% Khả năng giao tiếp 33/35 94,3% 2/35 5,7% * Đối với phụ huynh: Thấy con có tiến bộ rõ rệt về ngôn ngữ trong giao tiếp nên phụ huynh yên tâm phấn khởi và chủ động phối hợp với giáo viên để giáo dục trẻ ngày càng tiến bộ hơn 3. PHẦN KÕt luËn 3.1. Ý nghĩa của đề tài, sáng kiến, giải pháp: Phát triển vốn từ cho trẻ ở trường mầm non và đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ là vấn đề rất quan trọng và cần thiết, mức độ phát triển vốn từ của trẻ còn tùy thuộc vào 12
  13. nhiều yếu tố khác nhau. Tôi nhận thấy việc rèn luyện và phát triển vốn từ cho trẻ là cả quá trình liên tục và có hệ thống đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bì, khắc phục khó khăn để tìm ra phương tiện, điều kiên cần thiết cho sự phát triển toàn diện của các cháu. Vậy muốn có được kết quả trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua quá trình thực hiện tôi rút ra một số bài học kinh nghiệm sau: Giáo viên cần hiểu rõ tầm quan trọng của ngôn ngữ với việc hình thành và phát triển nhân cách trẻ, không ngừng học tập để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tự rèn luyện ngôn ngữ của mình để phát âm chuẩn Tiếng Việt. Để phát triển ngôn ngữ của trẻ một cách toàn diện thì cô giáo cần phải thực hiện ba nhiệm vụ: + Làm giàu vốn từ của trẻ qua việc hướng dẫn trẻ quan sát, đàm thoại, hướng dẫn trẻ chơi, kể chuyện và đọc truyện cho trẻ nghe. + Củng cố vốn từ cho trẻ +Tích cực hóa vốn từ cho trẻ Giáo viên phải biết phối hợp chặt chẽ ba nội dung trên để góp phần tạo điều kiện cho trẻ lĩnh hội những điều mới lạ về thế giới xung quanh. Giáo viên luôn tạo không khí vui tươi, thoải mái cho trẻ, động viên trẻ đi học đều, tạo điều kiện quan tâm đến những trẻ nhút nhát,dành thời gian gần gũi,trò chuyện với trẻ để trẻ mạnh dạn, tự tin tham gia các hoạt động tập thể giúp trẻ được giao tiếp nhiều hơn. Cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để giáo viên nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ để từ đó có kế hoạch phát triển vốn từ. Tổ chức nhiều trò chơi sử dụng ngôn ngữ. Cô giáo tạo điều kiện cho trẻ nghe nhiều và nói chuyện nhiều với trẻ, luôn tìm cách thúc đẩy trẻ sử dụng ngôn ngữ một cách chủ động. Tích cực cho trẻ tiếp cận và làm quen với thiên nhiên và phát triển khả năng quan sát của trẻ, giúp trẻ củng cố và tư duy hóa các biểu tượng ngôn từ. Vận động phụ huynh đóng góp các loại hoa, cây cảnh, vật nuôi để xây dựng góc thiên nhiên phong phú, thông qua các tiết học, cô kết hợp với nội dung phát triển ngôn ngữ cho trẻ phù hợp. Tóm lại, trong tất cả các hoạt động hàng ngày của trẻ ở trường cô phải tích cực trò chuyện với trẻ, hỏi trẻ để trẻ trả lời, nếu trẻ không trả lời được cô phải biết sử dụng từ trong tình huống giao tiếp. 3.2. Kiến nghị, đề xuất. Để thực hiện tốt hơn các biện pháp giúp trẻ phát triển tốt ngôn ngữ. Bản thân tôi xin có một số đề xuất sau: 13
  14. * Đối với phòng giáo dục và đào tạo: Cần tăng cường hơn nữa các lớp tập huấn, bồi dưỡng để giáo viên có nhiều cơ hội học tập và rút kinh nghiệm cho bản thân. Cung cấp các tiến bộ khoa học kỹ thuật như: Học tập qua băng hình, đĩa ghi hình để cung cấp thêm tư liệu cho giáo viên. * Đối với nhà trường: Tiếp tục làm công tác chỉ đạo cụ thể, làm tốt công tác kiểm tra, đánh giá rút kinh nghiệm cho giáo viên và có kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên những mặt còn hạn chế, luôn tổ chức các buổi hội thảo về chuyên đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ để giáo viên được trao đổi những vướng mắc trong chuyên môn. Nhà trường cần bổ sung thêm hệ thống tài liệu về các trò chơi dân gian nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 24 – 36 tháng * Đối với giáo viên: Giáo viên cần mạnh dạn trong việc sử dụng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ của trẻ 24-36 tháng tuổi vào thực tiễn và thực hiện trong các nội dung hoạt động giáo dục. * Đối với phụ huynh: Cần quan tâm, phối hợp nhiều hơn nữa với giáo viên trong việc rèn và phát triển ngôn ngữ cho trẻ tại gia đình. Trên đây là một số biện pháp giúp trẻ 24 – 36 tháng phát triển ngôn ngữ. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các cấp lãnh đạo, các bạn đồng nghiệp để bản sáng kiến kinh nghiệm của tôi thêm đầy đủ để góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ được tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! 14