Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp tăng cường dạy Tiếng Việt cho trẻ 5-6 tuổi dân tộc Bru - Vân Kiều

doc 19 trang binhlieuqn2 07/03/2022 4673
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp tăng cường dạy Tiếng Việt cho trẻ 5-6 tuổi dân tộc Bru - Vân Kiều", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_tang_cuong_day_tieng.doc

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp tăng cường dạy Tiếng Việt cho trẻ 5-6 tuổi dân tộc Bru - Vân Kiều

  1. và tìm ra một số giải pháp nhằm "Tăng cường dạy Tiếng Việt cho trẻ 5-6 tuổi dân tộc Bru Vân Kiều". Sau đây là một số biện pháp cơ bản: 2.2. Các giải pháp: Giải pháp 1: Một số giải pháp dạy trẻ nghe: Theo chương trình giáo dục mầm non dạy trẻ nghe bao gồm: Nghe lời nói trong giao tiếp hằng ngày; Nghe kể chuyện đọc thơ, ca dao, đồng giao phù hợp với độ tuổi; Nghe các từ chỉ người, sự vật, hiện tượng, đặc điểm, tính chất, hoạt động và các từ chỉ biểu cảm, từ khái quát. * Dạy trẻ nghe kể chuyện, đọc thơ, ca dao, đồng giao: Do khả năng nhận thức cũng như ngôn ngữ của trẻ dân tộc còn nhiều hạn chế nên thực hiện đổi mới nội dung chương trình tôi đã biết lựa chọn những câu chuyện, bài thơ, ca dao, đồng giao phù hợp với độ tuổi và khả năng nhận thức của trẻ. Về chuyện: tôi đã chọn những câu chuyện ngắn có nội dung đơn giản, có tình tiết trùng lặp, các nhân vật thân thuộc, gần gũi đáng yêu và ngữ điệu vui nhộn, hấp dẫn, giúp trẻ hứng thú tham gia. Ví dụ: Trước đây theo chương trình đổi mới hình thức phương pháp dạy câu chuyện: "Niềm vui bất ngờ" nay chương trình giáo dục mầm non mới tôi thay đổi dạy câu chuyện: "Bác sỹ Chim"; Câu chuyện " Cây tre trăm đốt" nay chương trình giáo dục mầm non mới tôi thay đổi dạy câu chuyện: "Sự tích Cây Vú sữa"; Câu chuyện " Sơn Tinh - Thủy Tinh" nay chương trình giáo dục mầm non mới tôi thay đổi dạy câu chuyện: "Thần Sắt" ; Về thơ tôi đã cũng chọn những bài ngắn, câu thơ có ít từ, có vần điệu, nhịp điệu gần gủi, giúp trẻ dễ nhớ, dễ thuộc. Ví dụ: Trước đây theo chương trình đổi mới hình thức phương pháp dạy những bài thơ: "Bó hoa tăng cô" nay chương trình giáo dục mầm non mới tôi thay đổi dạy bài: "Làm quen chữ số"; Bài thơ: "Gà mẹ đếm con" nay chương trình giáo dục mầm non mới tôi thay đổi dạy bài: "Đàn Kiến nó đi"; Bài thơ: "Em Vẽ" đổi thay bài "Tay ngoan" Tương tự như vậy tôi đã lựa chọn cho trẻ nghe những bài hát, câu đố, hò, vè, tục ngữ ca dao, đồng giao gần gũi, phù hợp với khả năng nhận thức, trẻ dễ nhớ, dễ thuộc 8
  2. Đối với phụ huynh và trẻ dân tộc Bru - Vân Kiều thường nói mất dấu hoặc từ có dấu thì chuyển thành dấu nặng, phát âm không rõ từ, không đúng thanh điệu, ngữ điệu. Ví dụ: Số bảy thì nói là số "bay"; Mẹ đi làm thì nói "Me đị làm ". Vì vậy, để trẻ nghe đúng trước hết giáo viên phải nói đúng từ ngữ, âm điệu, nhịp điệu thanh điệu Trong khi kể chuyện, đọc thơ, ca dao, đồng giao cô nên đọc, kể chậm rãi, ngắt nghỉ đúng chỗ, thể hiện đúng thanh điệu, nhịp điệu của bài Việc đọc, kể phải thể hiện theo tâm trạng, tính cách nhân vật kết hợp hành động, cử chỉ, nét mặt, lộ rõ cách phát âm từ lưỡi, miệng, môi của cô và điều chỉnh luồng hơi phát ra từ cổ, họng để phát âm thật chính xác. * Dạy trẻ nghe nói trong giao tiếp hằng ngày: trong các thời điểm đón trẻ, trả trẻ, trong các hoạt động sinh hoạt hàng ngày giáo viên cần nói cho trẻ nghe và thường xuyên giao tiếp với trẻ. Cô nắm bắt khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ để có kế hoạch giao lưu, giao tiếp với trẻ. Cô nói chuyện với trẻ, vuốt ve, âu yếm tạo sự gần gủi thân thiện giúp trẻ không có mặc cảm, tự ti, rụt rè, nhút nhát. Trong quá trình trẻ nghe cô khuyến khích trẻ chú ý, hứng thú, tạo cho trẻ cảm giác gần gũi, vui tươi. Có thể cô nói chưa hết câu nhưng ngừng lại để dành cho trẻ sự tập trung chú ý hơn. Trong cùng một độ tuổi nhưng khả năng và đặc điểm tâm sinh lý của trẻ khác nhau do đó việc nghe của trẻ cũng khác nhau. Đối với trẻ yếu, nhút nhát cô cần cho trẻ nghe những câu ngắn, đơn giản. Thường xuyên gọi tên trẻ và quan tâm đối với trẻ, những đồ dùng, đồ chơi, sự vật hiện tượng, các bộ phận trên cơ thể trẻ cô cần cho trẻ nhận biết, gọi tên và hướng dẫn trẻ giữ gìn bảo vệ; thường xuyên nhắc nhỡ trẻ khác cùng giúp đỡ, trao đổi, trò chuyện và tham gia chơi cùng cháu yếu, nhút nhát. Đối với trẻ có khả năng phát triển tốt hơn cô cho trẻ nghe những câu mở rộng, câu phức, những đoạn chuyện, những khổ thơ dài hơn. Nghe thường đi đôi với hiểu, nghe đầy đủ thì hiểu đúng nội dung câu nói, nghe không đầy đủ thì hiểu sai nội dung lời nói. Vì vậy, khi nói cho trẻ nghe ngữ điệu cô cần gắn với tình cảnh xảy ra tạo tâm thế vui tươi giúp trẻ tri giác đầy đủ, trọn vẹn lời nói của mình. Nếu tình cảnh vui thì ngữ điệu của cô nhẹ nhàng, âu yếm, nét mặt rạng rỡ hân hoan. Nếu tình cảnh buồn thì ngữ điệu trầm, nét mặt buồn lắng, thể hiện sự không hài lòng, không vui tươi. Đối với trẻ 5-6T cô cần giúp trẻ hiểu được 2-3 yêu cầu liên tiếp. 9
  3. Ví dụ: Yêu cầu cháu đến giá tạo hình lấy tranh của bạn A rồi đem về để vào bọc cho bạn A. Trong quá trình trẻ thực hiện giáo viên để ý xem cháu có làm đúng yêu cầu của cô không, nếu đúng thì kịp thời khen ngợi, nếu chưa đúng thì hướng dẫn cháu thực hiện cho đúng yêu cầu đó. Giúp trẻ hiểu được nội dung câu đơn, câu phức, câu mở rộng, tiến tới hiểu nội dung bài thơ, câu chuyện. Đối với trẻ dân tộc Vân Kiều khả năng hiểu nội dung bài thơ, câu chuyện rất khó. Vì vậy, trong quá trình dạy cho trẻ giáo viên không tham vọng ôm đồm nhiều nội dung mà chỉ đặt ra yêu cầu trọng tâm nhất của bài. Ví dụ: Đối với bài thơ "Nàng Tiên ốc": Đối với trẻ dân tộc Kinh cô giáo có thể đặt yêu cầu trẻ phải biết được những câu, từ miêu tả con Ốc đẹp như thế nào?, Những chuyện lạ đã xảy ra trong nhà bà? Vì sao bài thơ có tên "Nàng Tiên Ốc"? Nhưng đối với trẻ dân tộc thiểu số giáo viên có thể chỉ đặt ra yêu cầu: trẻ biết từ trong con Ốc có Nàng Tiên và đã giúp bà làm những công việc như cho lợn ăn, quét dọn nhà cửa, nấu cơm cho bà khi bà đi vắng Giải pháp 2. Một số giải pháp dạy trẻ nói Tiếng Việt: * Cô giáo tổ chức tốt các tiết học để dạy trẻ nói. Trên tiết học là điều kiện tốt nhất để dạy trẻ nói Tiếng Việt, chỉ có tiết học mới cung cấp và giúp trẻ nói Tiếng Việt chính xác và đầy đủ nhất. Dạy trẻ phát âm rõ các chữ cái trong chương trình: Đối với các chữ cái nguyên âm như chữ cái a, ă, â, o, ô, ơ, e, ê, u, ư thì trẻ dễ nhớ, dễ thuộc, cô chỉ cần phát âm đúng, rõ ràng là trẻ đọc theo được. Đối với các chữ cái có phụ âm đầu, phụ âm cuối gần giống nhau như chữ cái: b, d, đ, m, n, l, h cô cần phát âm nhiều lần, kết hợp với độ mở của miệng, môi, sự uốn cong của lưỡi và luồng hơi bật ra để giúp trẻ dễ quan sát và bắt chước đọc theo. Dạy trẻ kể lại chuyện: Đối với trẻ dân tộc khả năng ghi nhớ có chủ định và ngôn ngữ diễn đạt còn hạn chế nên việc kể lại chuyện rất khó khăn, cần có sự giúp đỡ của giáo viên. Trong quá trình nghe cô kể chuyện nhiều lần trẻ tiếp thu nội dung kiến thức, hiểu được nội dung của chuyện từ đó nắm được trình tự nội dung câu chuyện. Giáo viên dạy trẻ kể lại chuyện là cơ hội giúp trẻ thể hiện khả năng nghe, nói và ghi nhớ của mình. Cô kể một đoạn rồi có thể dừng để cho trẻ kể tiếp. Có thể Cô đóng vai là người dẫn chuyện giúp trẻ kể lại từng đoạn chuyện và cả câu chuyện. Khi đóng vai người dẫn chuyện giáo viên phải biết được nên kể ở đoạn nào và dừng ở đoạn nào, đoạn nào khuyến khích trẻ tự kể. 10
  4. Đối với các câu chuyện có nhiều đoạn hội thoại, nhiều tình tiết lặp đi lặp lại cô nên khuyến khích trẻ tự kể các đoạn hội thoại và các tình tiết lặp đi lặp lại đó. Ví dụ: Khi dạy trẻ kể lại câu chuyện "Ba cô gái" cô nên để trẻ tự kể các đoạn chú Sóc con đưa thư đến nhà và nói với Chị Cả, Chị Hai,Chị Út và những câu hội thoại mà chị Cả, chị Hai, Chị Út nói với Sóc con. Khi nghe cháu kể lại chuyện hoặc đọc thơ, ca dao, đồng giao giáo viên chú ý lắng nghe và ghi nhớ những câu, những từ trẻ phát âm chưa đúng để sửa sai cho trẻ. Tiến hành sửa ngay sau khi trẻ đọc xong hoặc kể xong, bằng cách cô cho trẻ nói đi nói lại sao cho trẻ phát âm đúng từ, câu đó rồi mới chuyển sang từ khác, câu khác, cháu khác. Trong lớp có nhiều trẻ nói sai, trong cùng một lúc giáo viên có thể không sửa sai được cho hết tất cả các cháu cô cần ghi vào sổ nhật ký để mọi lúc, mọi nơi giáo viên phải chú ý sửa sai cho trẻ, làm sao sau mỗi từ, mỗi câu, mỗi trẻ mà phát âm chưa đúng thì giáo viên phát hiện đầy đủ và sửa sai. Bỡi vì trẻ dân tộc chưa ý thức được cách phát âm của mình là đúng hay sai nên theo bản năng cháu cứ phát âm mãi dần dần trở thành thói quen và khi đã trở thành thói quen rồi thì sửa sai cho trẻ khó vô cùng. Một số từ trẻ thường phát âm sai như: "rộn ràng" thì trẻ đọc "dộn dàng"; "S" thì trẻ phát âm "x". . Một số từ nhất là từ láy trẻ thường phát âm sai như: "bồng bềnh" trẻ nói "dồng dềnh", "tinh tươm" trẻ nói "inh ươm". * Cô giáo khuyến khích trẻ đặt câu hỏi và tự trả lời: Cô có thể sử dụng hình thức câu đố hỏi trẻ sau đó khuyến khích trẻ tự đặt câu đố hỏi cô: Những câu hỏi chỉ nguyên nhân. Ví dụ: Cô hỏi vì sao khi bật quạt chúng ta thấy mát?; trẻ đặt câu hỏi: vì sao khi bật bóng đèn thấy sáng hơn? Tương tự cô đặt một số câu hỏi so sánh, khuyến khích trẻ đặt theo: Nhiều hơn- ít hơn, cao hơn- thấp hơn, giống nhau- khác nhau Ví dụ: Cô hỏi: Cháu có gì giống cô? Trẻ hỏi: cô có gì khác cháu? Giúp trẻ sử dụng một số từ chỉ biểu cảm: Giáo viên có thể sưu tầm và tìm kiếm một số hình ảnh trên internet rồi thiết kế giáo án PewPoin chiếu trên máy cho trẻ xem, khi trẻ xem xong cô giáo cần gợi ý cho trẻ sử dụng một số từ chỉ biểu cảm gắn vào tình huống đó. Ví dụ: Khi xem bạn mặc áo mới cô hỏi trẻ: Bạn sẽ như thế nào khi được mặc chiếu áo mới? Nếu con có chiếc áo mới thì sẽ thế nào? Dạy trẻ nói thông qua việc mô tả sự vật, hiện tượng, kể lại sự việc: 11
  5. Khi tổ chức cho trẻ tham quan, dạo chơi và các hoạt động giáo dục khác giáo viên gợi ý cho trẻ tập mô tả sự vật, hiện tượng đã xảy ra theo khả năng của mình. Ví dụ: Khi quan sát "Cây Bàng" cô khuyến khích cho trẻ mô tả "Cây Bàng" có các bộ phận nào? Lá cây, thân cây có hình dáng như thế nào, "Cây Bàng" có tác dụng gì?, Nếu không có "Cây Bàng" này khi trời nắng thì cô cháu mình sẽ thế nào? Khi dạo chơi ngoài trời xong cô cho trẻ kể lại trình tự những công việc đã làm, những tình huống đã xẩy ra, cảm xúc của trẻ về những tình huống đó. Cô có thể đặt một số câu hỏi rồi khuyến khích trẻ tự nói theo khả năng của mình. Cô khuyến khích trẻ tự nói, tự bày tỏ cảm xúc và tự trình bày, tự kể lại những câu chuyện, tình tiết sự việc đã xảy ra trước đó mà trẻ được bắt gặp cho cô và các bạn khác cùng nghe. Giải pháp 3: Một số giải pháp dạy trẻ làm quen với việc đọc, viết: Dạy trẻ làm quen với cách đọc và viết Tiếng Việt: Khác với các ngôn ngữ của các nước khác cách đọc, viết Tiếng Việt bắt đầu từ trái sang phải, từ dòng trên xuống dòng dưới; hướng viết Tiếng Việt ở độ tuổi cháu mẫu giáo thì chủ yếu theo chiều mũi tên, giáo viên cần hướng dẫn cho trẻ biết chiều hướng từng mũi tên và điểm bắt đầu và điểm dừng của chữ cái. Hướng dẫn trẻ thực hành tập tô chữ cái, sao chép một số kí hiệu, chữ cái, tên mình: Để thực hiện nhiệm vụ này giáo viên cần kết hợp linh hoạt giữa lời nói với động tác, cử chỉ, đường nét. Vị trí ngồi của cô phù hợp sao cho trẻ dễ quan sát và tri giác trọn vẹn thao tác của cô. Ví dụ: Khi hướng dẫn trẻ cầm bút giáo viên hướng dẫn trẻ cầm bằng tay phải thì đồng thời cô đưa tay phải lên. Cầm bằng 3 ngón tay thì đồng thời đưa 3 ngón tay: ngón tay cái, ngón tay trỏ và ngón tay giữa cho trẻ thấy. Cô nói chậm và nói đến ngón tay nào thì đưa ra ngón tay đó ra nhịp nhàng, linh hoạt. Khi tô chữ cái cô hướng dẫn điểm bắt đầu, điểm dừng theo đúng chiều hướng mũi tên. Nói đến đâu tô đến đó. Tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với đồ dùng dụng cụ học tập, đồ chơi, trang thiết bị dạy học, sách vỡ, tranh ảnh, máy vi tính Năm học này, không được sự hỗ trợ của ngành nên nhà trường có chủ trương yêu cầu phụ huynh mua dụng cụ học tập cho trẻ. Có đủ dụng cụ cho trẻ học là điều quan trọng và cần thiết, tôi đã phối hợp với phụ huynh chuẩn bị đầy đủ dụng cụ học tập, mỗi trẻ có đủ vỡ tập tô, bút chì, bộ chữ cái, tranh ảnh Trong các hoạt động, tôi tạo điều kiện cho các cháu được sử dụng dụng cụ học tập của mình. Trẻ tự cất, lấy đồ dùng theo ký hiệu; hướng dẫn trẻ bảo quản, 12
  6. giữ gìn sạch sẽ, cẩn thận. Tập cho trẻ có thói quen tốt là sau khi sử dụng xong xếp ngay ngắn và để vào giá góc theo quy định. Hướng dẫn trẻ biết cấu tạo các cuốn sách, vỡ, chiều hướng đọc sách, mở sách, xem sách. Làm quen với một số ký hiệu thông thường trong cuộc sống hàng ngày như ký hiệu nhà vệ sinh, lối đi vào, đi ra, những nơi có cảnh báo nguy hiễm, ký hiệu trên đồ dùng vệ sinh và dụng cụ học tập của mình Giải pháp 4: Giúp trẻ hiểu và giao tiếp bằng Tiếng Việt trong sinh hoạt hằng ngày. Vốn ngôn ngữ Tiếng Việt của trẻ còn nhiều hạn chế nên trẻ chưa mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp. Do đó dạy trẻ giao tiếp bằng Tiếng Việt với mọi người là nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết. Môi trường giao tiếp của trẻ bao gồm trên lớp, ở nhà và cộng đồng dân cư. Đối tượng giao tiếp của trẻ là cô giáo, bạn bè, người thân trong gia đình (ông, bà, cha, mẹ, anh, chị, em) và những người thân quen gần gũi. Để giúp trẻ tự tin, mạnh dạn trong giao tiếp với mọi người đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng đối với giáo viên dạy vùng dân tộc thiểu số. Trên lớp cô giáo giữ vai trò quan trọng quyết định khả năng giao tiếp của trẻ. Vì vậy, giáo viên cần tạo cơ hội cho trẻ giao tiếp bằng Tiếng Việt. Khi tổ chức các hoạt động (hoạt động học, hoạt động góc, hoạt động ngoài trời, sinh hoạt chiều, tổ chức các trò chơi, vệ sinh ) giáo viên cần dành một lượng thời gian nhất định để cho trẻ tự bàn bạc, thảo luận và nêu ý định của mình. Phát huy làm sao mỗi trẻ được nêu một ý kiến cho riêng mình sau đó tạo cơ hội cho trẻ trong nhóm bàn luận, tranh cãi với nhau. Hoạt động này có các tình huống xảy ra như có cháu nói có ý đúng, ý hay, có cháu nói chưa có ý hay, ý đúng. Vì vậy, cô là người giải quyết, tổng kết, kết luận các vấn đề nảy sinh. Giúp trẻ biết phân công công việc và đánh giá, nhận xét, góp ý cho nhau trong quá trình hoạt động theo tổ, nhóm. Mặc dù trong lớp gồm cháu dân tộc thiểu số và cháu dân tộc Kinh nhưng chúng tôi yêu cầu các cháu khi đến lớp chỉ giao tiếp với nhau bằng Tiếng Việt; phân công những cháu nói Tiếng Việt tốt kèm cặp, giúp đỡ, hướng dẫn những cháu nói Tiếng Việt còn hạn chế, chú ý phát hiện và sửa sai từ, câu cho bạn. Trong các giờ đón, trả trẻ cô giúp cháu biết chào hỏi, thưa gửi, biết giới thiệu về bản thân, gia đình và biết kể những sở thích của mình, kể tên những người thân trong gia đình, tình cảm của trẻ đối với những người thân đó, những con vật, đồ vật yêu thích, những sự việc đã xảy ra mà trẻ biết. 13
  7. Phối hợp với phụ huynh để trẻ giao tiếp bằng Tiềng Việt khi ở nhà. Thông thường lúc ở nhà phụ huynh và trẻ giao tiếp với nhau bằng tiếng mẹ đẻ, họ ít quan tâm dạy con nói bằng Tiếng Việt nên việc phối hợp với phụ huynh để dạy trẻ nói Tiếng Việt khi ở nhà là rất quan trọng. Ngoài thời gian ở lớp các cháu có lượng thời gian rất lớn khi ở nhà, nếu được người thân quan tâm giúp đỡ trẻ nói Tiếng Việt rất có hiệu quả. Hiểu được vấn đề đó trong thời gian qua tôi đã tích cực phối hợp với phụ huynh để quan tâm dạy Tiếng Việt cho trẻ khi ở nhà. Trong thời điểm đón trẻ, trả trẻ và tận dụng những khi được gặp gỡ tôi đã trực tiếp trao đổi với phụ huynh về tình hình của trẻ khi ở lớp, yêu cầu phụ huynh dạy trẻ nói Tiếng Việt khi ở nhà, cung cấp một số bài thơ, câu chuyện, chữ cái và chỉ ra những câu, những từ mà trẻ nói chưa đúng, chưa chính xác hướng dẫn cho phụ huynh sửa sai giúp cho trẻ nói đúng. Yêu cầu cha, mẹ, anh chị cần dành một thời gian cần thiết để trò chuyện, giao tiếp với trẻ bằng Tiếng Việt. Nhờ áp dụng các biện pháp trên nên mặc dù chưa kết thúc năm học nhưng lớp tôi đã đạt được kết quả đáng phấn khởi. * Kết quả đạt được: Kết quả TT Nội dung K-G TB Yếu TS SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ 1 Khả năng nghe 17 10 58,8 5 29,4 2 11,8 2 Khả năng nói 17 11 64,7 5 29,4 1 5,9 Khả năng làm quen với 3 17 10 58,8 4 23,5 3 17,6 đọc, viết. Khả năng hiểu lời nói 4 17 11 64,7 3 17,6 3 17,6 Tiếng Việt. Khả năng giao tiếp bằng 5 17 11 64,7 4 23,5 2 11,8 Tiếng Việt của trẻ. Qua kết quả cho thấy: số lượng cháu đạt Trung bình trở lên: 87,1%; Yếu: 12,9% * Bài học kinh nghiệm : Nhờ áp dụng các biện pháp "Tăng cường dạy Tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo 5-6T người dân tộc Bru- Vân Kiều", bằng sự giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà 14
  8. trường cùng chị em đồng nghiệp và sự nỗ lực phấn đấu không ngừng của bản thân, tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm sau: 1. Giáo viên cần có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, chấp hành tốt chủ trương đường lối của Đảng; có phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh giản dị, yêu nghề, mến trẻ, đối xử công bằng với trẻ, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có ý thức học hỏi chị em đồng nghiệp để vươn lên về mọi mặt. 2. Nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ; nắm vững nội dung chương trình giáo dục trong đó các nội dung về lĩnh vực phát triển ngôn ngữ cho trẻ để xây dựng kế hoạch chăm sóc giáo dục trẻ và các biện pháp giáo dục phù hợp. Khi tổ chức hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ giáo viên cần nghiên cứu kỹ các phương tiện, điều kiện, chuẩn bị đầy đủ các đồ dùng cần thiết để tiến hành hoạt động đạt kết quả cao. 3. Lựa chọn nội dung phù hợp với mục tiêu, yêu cầu giáo dục, phù hợp với đặc điểm nhận thức và khả năng của trẻ và đáp ứng nhu cầu phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Khuyến khích sự hứng thú, tích cực tham gia vào các hoạt động chăm sóc, giáo dục đặc biệt là hoạt động giao tiếp. 4. Cần phải thường xuyên tổ chức cho trẻ tham gia chơi các Trò chơi để phát triển ở trẻ tình cảm, nhận thức, khả năng giao tiếp ngôn ngữ, tinh thần tập thể, biết nhường nhịn bạn bè, biết giao lưu, chia sẽ kinh nghiệm của mình trước những bạn khác, hạn chế tính rụt rè, nhút nhát của trẻ. 5. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa các giáo viên trong lớp, giáo viên trong nhóm, với phụ huynh và những người thân trong gia đình trẻ. Phần III. Kết luận 3.1. Ý nghĩa phạm vi áp dụng của đề tài, sáng kiến giải pháp Giáo viên là lực lượng nồng cốt quyết định chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục trẻ, chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ tỷ lệ thuận với lương tâm, trách nhiệm của người giáo viên. Nếu các cháu mầm non được chăm sóc, giáo dục chu đáo là cơ sở để hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ; làm tiền đề nền móng vững chắc cho trẻ học phổ thông. Đảng, Nhà nước giao cho chúng ta trọng trách vinh vang, rất đỗi tự hào và trách nhiệm lớn lao, đó là nhiệm vụ "Trồng người". Bác Hồ nói: "Vì lợi ích mười năm ta phải trồng cây Vì lợi ích trăm năm ta phải trồng người" Sự nghiệp "Trồng người" đối với trẻ em vùng thuận lợi đã rất khó khăn, vất vã song đối với trẻ em người dân tộc thiểu số lại càng khó khăn vất vả hơn. Làm 15
  9. sao cho trẻ phát triển đúng yêu cầu của nền giáo dục nước nhà đó là mục tiêu, trách nhiệm cao cả của mỗi một người giáo viên. Thấm nhuần lời dạy của Người, giáo viên mầm non phải ra sức thi đua dạy tốt, học tốt, đem hết sức lực, tâm huyết, trí tuệ của mình cống hiến cho sự nghiệp "Trồng người" của đất nước. "Tăng cường dạy Tiếng Việt" cho trẻ là góp phần thực hiện "lời dạy" của Người. Dạy Tiếng Việt cho trẻ bao gồm các nội dung: dạy cho trẻ nghe Tiếng Việt một cách đầy đủ, chính xác; hiểu Tiếng Việt là hiểu được ý nghĩa câu nói, câu hỏi câu trả lời; nói Tiếng Việt một cách thành thạo là nói đúng từ, đúng câu, đúng âm điệu, ngữ điệu, nhịp điệu, thanh điệu và làm quen với việc đọc, viết Tiếng Việt Các nội dung trên có mối quan hệ đặc biệt với nhau nếu nghe đúng thì nói đúng và hiểu đúng ý nghĩa câu nói, ngược lại nếu nghe sai thì không hiểu được ý nghĩa câu nói và nói không đúng. Để thực hiện tốt các nội dung trên thì phải thực hiện đồng thời, thường xuyên và liên tục, kết hợp hài hòa giữa Nhà trường-Gia đình-Xã hội. Việc dạy trẻ sử dụng thành thạo Tiếng Việt có ý nghĩa nhân văn sâu sắc nhằm hình thành và phát triển toàn diện về thể chất, nhận thức, tình cảm và quan hệ xã hội. Đồng thời góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, tinh hoa nhân loại; đóng góp vào công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà Đảng ta đã và đang khởi xướng. Việc dạy trẻ sử dụng thành thạo Tiếng Việt thông qua các biện pháp dạy trẻ nói Tiếng Việt đúng quy định, nghe và hiểu được nội dung lời nói, làm quen với việc đọc, viết và sử dụng chúng trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày làm tiền đề nền tảng cho việc phát triển tư duy, nhận thức và hoàn thiện nhân cách con người giúp cho các cháu trẻ em người dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Vân Kiều nói riêng vươn lên làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời. Sử dụng đúng Tiếng Việt ngay từ tuổi mầm non là cơ sở để giúp trẻ sau này lớn lên có điều kiện mở rộng môi trường giao tiếp, giao lưu với bạn bè các vùng miền trên quê hương, đất nước, trong cộng đồng dân cư, trong mái nhà chung Việt Nam. Để dạy Tiếng Việt cho trẻ có kết quả, giáo viên mầm non cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ với kỹ năng và thực tiễn công việc. Phối hợp hài hòa giữa giáo dục Nhà trường- Gia đình- Xã hội. 3.2. Những kiến nghị, đề xuất Đề nghị lãnh đạo ngành và cán bộ quản lý giáo dục mầm non góp ý chân thành vào bản Sáng kiến kinh nghiệm này; tạo điều kiện để bản thân tôi được học 16
  10. tập thêm chị em đồng nghiệp, được giao lưu và đúc rút được nhiều kinh nghiệm góp phần nâng cao năng lực sư phạm và nâng cao hơn nữa chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Bên cạnh những kết quả đã đạt được song Sáng kiến kinh nghiệm này cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót kính mong sự đóng góp ý kiến giúp đỡ của đồng nghiệp, Hội đồng khoa học của Nhà trường và Hội đồng khoa học của ngành để cho bản Sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn và có khả năng áp dụng trong phạm vi toàn trường và còn vươn đến các trường mầm non thuộc vùng núi, vùng sâu, vùng xa, nơi biên giới./. 17
  11. Người viết Nguyễn Thị Tú Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG Ý KIẾN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD- ĐT LỆ THỦY 18