Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn Lịch sử

pdf 26 trang binhlieuqn2 03/03/2022 11043
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn Lịch sử", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_ban_do_tu_duy_trong_day_hoc_mo.pdf

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học môn Lịch sử

  1. hành sử dụng bản đồ tư duy như thế nào, thông qua bản đồ tư duy thì giáo viên chưa hướng dẫn cụ thể cho học sinh cách thiết kế và sử dụng nắm bắt kiến thức ở bản đồ tư duy ra sao. Bên cạnh đó một số giáo viên chưa thật sự chú trọng và còn tẻ nhạt với phương pháp dạy học này. Hơn nữa chương trình lịch sử quá rộng, kiến thức nhiều mà giáo viên chưa rút gọn những gì cần truyền đạt, những gì chỉ giới thiệu qua và những vấn đề nào cần hướng dẫn cho học sinh. b. Về phía học sinh: Đa số các em học sinh chỉ coi môn lịch sử là môn học phụ vì vậy mà các em ít quan tâm đầu tư cho môn học này. Mục đích học tập của các em đơn thuần chỉ là có điểm số mà thôi. Các em chưa thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng thực sự của môn học đối với sự hình thành và phát triển nhân cách,và kĩ năng của mình. Các em chưa tự giác học tập, ít tham khảo sách vở, mải chơi. Các em chưa có thói quen chủ động tìm hiểu, khám phá bài học nếu không được giao nhiệm vụ cụ thể. Học sinh chưa có thói quen chuẩn bị đồ dùng học tập như giấy A4, bút màu, bút chì, tẩy hoặc bảng phụ trong tiết học lịch sử mà chỉ dùng trong tiết học Mỹ thuật. Mặt khác, học sinh chưa hiểu rõ cách thể hiện nội dung, kiến thức như thế nào trong việc thiết kế và sử dụng bản đồ tư duy. Hầu như các em chưa có thói quen tìm hiểu, vận dụng, sáng tạo mà chỉ quen nghe, quen ghi chép những gì mà giáo viên nói. Cụ thể qua điều tra thực tế học sinh các lớp 8,9 các năm trước tôi thấy ý thức học tập bộ môn lịch sử chưa cao và kết quả cụ thể qua khảo sát chất lượng thu được như sau: Tốt, Khá: 30 %; Trung bình: 45%; yếu kém 25% Qua số liệu trên tôi nhận thấy rằng, tỉ lệ học sinh yếu kém vẫn còn nhiều. Khi các em còn chưa thích học môn lịch sử thì làm sao các em có thể vận dụng nó vào thực tiễn cuộc sống để rèn luyện phẩm chất, nhân cách và những kĩ năng cần thiết cho mình?
  2. Chương 2: Những giải pháp đã được áp dụng: Qua tìm hiểu thực trạng dạy học môn giáo lịch sử ở trường trung học cơ sở nói chung và trường trung học cơ sở Nhân Thắng nói riêng, bản thân tôi thấy để nâng cao chất lượng dạy học bộ môn lịch sử người giáo viên phải vận dụng các giải pháp để sử dụng bản đồ tư duytrong dạy và học môn lịch sử như sau: 1. Để vận dụng có hiệu quả, trước hết giáo viên phải hiểu được cơ sở khoa học, mục đích của phương pháp dạy học lịch sử theo bản đồ tư duy: * Về cơ sở khoa học: Bản đồ tư duy còn goị là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy, là hình thức ghi chép nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, hệ thống hóa một chủ đề hay một mạch kiến thức bằng cách kết hợp sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Cơ chế hoạt động của bản đồ tư duy là chú trọng tới hình ảnh, màu sắc, với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh). Bản đồ tư duy là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau vì vậy có thể vận dụng bản đồ tư duy vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hóa kiến thức sau mỗi chương và giúp học sinh hiểu bài, nhớ lâu, nhớ sâu. * Về mục đích: Bản đồ tư duy rèn phương pháp học cho học sinh: Việc rèn luyện phương pháp học cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, nhất là đối với những môn học thuộc như lịch sử, vì các em thường học theo kiểu “ Học vẹt” học trước quên sau. Sử dụng thành thạo bản đồ tư duy trong dạy học, học sinh sẽ rèn được phương pháp học tích cực, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển được tư duy. + Giúp học sinh học tập một cách tích cực: Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình, vì vậy việc sử
  3. dụng bản đồ tư duy giúp học sinh học tập một cách tích cực, huy động tối đa sự tư duy và sáng tạo của học mình, từ đó nhớ bài lâu và hiểu bài sâu. + Học sinh tự vẽ bản đồ tư duy có ưu điểm: Phát huy tối đa tính sáng tạo, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của mình, các em tự do chọn màu sắc (xanh, đỏ, vàng, tím, ), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong ), các em tự “sáng tác” nên trên mỗi bản đồ tư duy thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của từng học sinh và yêu quí, trân trọng “tác phẩm” của mình. + Bản đồ tư duy - phương pháp dạy học bằng cách sử dụng đồng thời hình ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết, với sự tư duy tích cực không chỉ tạo hứng thú trong học tập của học sinh mà còn góp phần đổi mới và làm phong phú các phương pháp dạy học tích cực cho người thầy. +. Dạy học bằng bản đồ tư duy giúp học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu, nhớ lâu và nhớ chính xác những nội dung bài học. Dạy học bằng phương pháp bản đồ tư duy giúp các em không thấy nhàm chán vì bài học dài dòng mà luôn sôi nổi, hào hứng từ đầu đến cuối tiết học. + Dạy học bằng bản đồ tư duy sẽ nâng cao hiệu quả trong việc củng cố kiến thức, rèn các kỹ năng và phát triển tư duy lôgíc cho học sinh. Với chủ trương giảm tải, dạy bằng bản đồ tư duy sẽ làm cho cô và trò không bị mất thời gian vào các chi tiết vụn vặn, trùng lặp mà tập trung thảo luận sâu và phát triển vấn đề cốt lõi của bài. + Dạy học bằng bản đồ tư duy còn có tác dụng phân loại đối tượng học sinh. Từ đó, giáo viên định hướng được sự đầu tư kiến thức, phương pháp bồi dưỡng phù hợp với từng đối tượng học sinh hơn. Dạy học bằng bản đồ tư duy có thể áp dụng được ở tất cả các trường học ngay cả những trường cơ sở hạ tầng chưa được đầu tư đầy đủ. 2. Phải nắm được các bước thực hiện khi sử dụng bản đồ tư duy trong dạy- học lịch sử: Dựa vào nguyên tắc dạy học và tác dụng của bản đồ tư duy chúng ta áp dụng dạy được ở nhiều dạng bài: Bài mới, ôn tập, hệ thống chương hoặc giai đoạn,
  4. làm bài tập lịch sử, đặc biệt là củng cố bài. Giáo viên hướng dẫn học sinh đi từ khái quát đến cụ thể, dựa trên cơ sở nguyên lý của bản đồ tư duy hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy: ( Nội dung chìa khóa là cây cành nhánh) từ đó học sinh mở rộng, phát triển thêm). Thực hiện dạy học bằng cách lập bản đồ tư duy được tóm tắt qua 4 bước như sau: - Bước 1: Học sinh lập bản đồ tư duy theo nhóm hay cá nhân với gợi ý, hướng dẫn của giáo viên. - Bước 2: Học sinh hoặc đại diện của các nhóm học sinh lên báo cáo, thuyết minh về bản đồ tư duy mà nhóm mình đã thiết lập. - Bước 3: Học sinh thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện bản đồ tư duy về kiến thức của bài học đó. Giáo viên sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp học sinh hoàn chỉnh bản đồ tư duy, từ đó dẫn dắt đến kiến thức của bài học. - Bước 4: Củng cố kiến thức bằng một bản đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn hoặc một bản đồ tư duy mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho học sinh lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó.
  5. 3. Ứng dụng dạy học bằng bản đồ tư duy trong một số bài học lịch sử ở lớp 8 và lớp 9: 3.1. Sử dụng bản đồ tư duy trong việc kiểm tra bài cũ Vì thời gian kiểm tra bài cũ không nhiều, chỉ khoảng 5-7 phút nên yêu cầu của giáo viên thường không quá khó, không đòi hỏi nhiều sự phân tích, so sánh để trả lời câu hỏi. Giáo viên thường yêu cầu học sinh tái hiện lại một phần nội dung bài học bằng cách gọi học sinh lên bảng trả lời câu hỏi. Giáo viên sẽ chấm điểm tùy vào mức độ thuộc bài của học sinh. Cách làm này vô tình để nhiều học sinh roi vào tình trạng “học vẹt”, đọc thuộc lòng mà không hiểu bài. Do đó, cần phải có sự thay đổi trong việc kiểm tra, đánh giá nhận thức của học sinh, yêu cầu đặt ra không chỉ “phần nhớ” mà cần chú trọng đến “phần hiểu”. Cách làm này vừa tránh được việc học vẹt, vừa đánh giá chính xác học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng học tập. Sử dụng bản đồ tư duy vừa giúp giáo viên kiểm tra được phần nhớ lẫn phần hiểu của học sinh đối với bài học cũ. Các bản đồ thường được giáo viên sử dụng ở dạng thiếu thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm. Ví dụ: Trước khi dạy học bài 6: Các nước Châu Phi (lịch sử 9), giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng điền các thông tin còn thiếu để hoàn thiện bản đồ tư duy về sự ra đời và quá trình phát triển thành viên của tổ chức ASEAN(mục II, III bài 5 Các nước Đông Nam Á)
  6. Hoặc trước khi dạy bài 15: Phong trào cách mạng Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất 1919-1925 (lịch sử 9), giáo viên yêu cầu học sinh lên bảng điền các thông tin còn thiếu để hoàn thiện bản đồ tư duy- bài 14: Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất (mục III).
  7. Sau khi học sinh đã hoàn thiện bản đồ, học sinh cần rút ra nhận xét về hoàn cảnh ra đời, mục tiêu hoạt động, sự phát triền thành viên của tổ chức ASEAN và nói rõ thái độ chính trị và khả năng cách mạng của từng gia cấp, tầng lớp xã hội Việt Nam sau chiến tranh thế giới thứ nhất, hay nói cách khác là nhận xét về mối quan hệ giữa các nhánh thông tin với từ chìa khóa trung tâm. Đây chính là phần hiểu bài của học sinh mà giáo viên cần căn cứ vào đó để đánh giá, cho điểm. 3.2 Sử dụng bản đồ tư duy trong việc giảng bài mới. + Khi dạy bài “Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và sự thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”- Lớp 9. Đặc điểm của bài này là học sinh đã nắm được những sự kiện, diễn biến và khí thế của phong trào cách mạng nước ta trước đó, nắm được những bước phát triển của cách mạng Việt Nam và điều kiện để tiến tới tổng khởi nghĩa. Biết những hình ảnh, tư liệu về cách mạng tháng Tám năm 1945. Vì vậy khi dạy bài này chúng ta hướng dẫn học sinh hoạt động nhóm thiết lập bản đồ tư duy với “chìa khóa” là “Tổng khởi nghĩa tháng tám và sự thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Từ đó xậy dựng kiến thức của từng nội dung lớn, nhỏ (Cây cành nhánh) việc làm này giúp học sinh tư duy lựa chọn kiến thức để lập và phát triển thêm. Sau khi giới thiệu xong nội dung kiến thức cần nắm trong bài học, giáo viên có thể tổ chức cho học sinh làm việc theo cá nhân hoặc theo nhóm nhỏ,
  8. dựa vào nội dung trong sách giáo khoa, bản đồ trong sách giáo khoa, bản đồ treo tường để hoàn thành bài tập. Cuối cùng, giáo viên cùng học sinh hoàn thiện được một bản đồ tư duy kiến thức theo ý muốn của mình, kết quả có thể như sau: + Với các bước tương tự, ví dụ : Khi dạy về cuộc khởi nghĩa Hương Khê ( Lịch sử 8). Sau khi vẽ bản đồ tư duy, giáo viên cho học sinh trình bày diễn biến, kết quả theo bản đồ, qua đó, các em nắm được trình tự và liên kết các sự kiện với nhau.
  9. + Có thể sử dụng bản đồ tư duy để trình bày từng phần nội dung bài học: Ví dụ : Khi dạy Lịch sử 8: Bài 29: Chính sách khai thác thuộc địa của thực dân pháp và những chuyển biến về kinh tế, xã hội Việt Nam. Giáo viên có thể sử dụng bản đồ tư duy để trình bày về xuất thân, cuộc sống, thái độ của từng giai cấp, tầng lớp mới đối với cách mạng giải phóng dân tộc: Giáo viên chia lớp thành 3 nhóm học sinh để vẽ sơ đồ tư duy về 3 giai cấp tấng lớp mới như sau: 3.3 Sử dụng bản đồ tư duy trong việc củng cố kiến thức bài học: Phù hợp việc củng cố kiến thức cho học sinh sau bài học thì dạng bài tập thích hợp là cho học sinh tự thiết kế cho mình một bản đồ theo ý muốn sáng tạo của mình với màu sắc tùy ý, có thể bản đồ thiếu nội dung kiến thức cụ thể hoặc đầy đủ lượng kiến thức của bài học như vừa tiếp thu trong bài học, hoạt động cá nhân hoặc nhóm. Tuy nhiên, các thông tin còn thiếu này sẽ bao trùm nội dung toàn bài để một lần nữa nhằm khắc sâu kiến thức và lưu ý đến trọng tâm của bài học.
  10. Ví dụ: Khi dạy bài 11: Trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai (lịch sử 9), sau khi học sinh đã tự thiết kế cho mình một bản đồ tư duy, thì giáo viên có thể so sánh, đối chiếu, nhận xét đánh giá bài của học sinh với bản đồ tư duy mà giáo viên đã chuẩn bị sẵn. Lưu ý chỉ đánh giá, nhận xét về kiến thức được thể hiện ở bản đồ chứ không tập trung đánh giá, nhận xét về màu sắc, hình vẽ. Có thể tham khảo bản đồ tư duy ở bài 11 như sau. Hoặc khi dạy sử 8- Bài 20: Phong trào độc lập dân tộc ở châu Á (1918- 1939). Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh lập bản đồ tư duy để củng cố kiến thức toàn bài như sau:
  11. Qua việc củng cố nội dung bài học theo hình thức này học sinh sẽ nhỡ lâu, nhớ kỹ nội dung bài học và phát huy được tính sáng tạo, tư duy của mình, giúp các em yêu thích môn lịch sử hơn. 3.4 Sử dụng bản đồ tư duy để ra bài tập về nhà: Vì làm bài tập về nhà sẽ có nhiều thời gian và điều kiện để tìm hiểu tài liệu nên bài tập về nhà mà giáo viên giao cho học sinh hoặc nhóm học sinh trước hết phải gắn với nội dung bài học và trong điều kiện cho phép(trình độ học sinh, thời gian, kinh tế). Yêu cầu đối với bài về nhà cũng cần khó hơn, phức tạp hơn và cần sự đầu tư lớn hơn(cả kênh chữ, kênh hình, màu sắc, lượng thông tin), qua đó còn thể hiện cả tính sáng tạo và sự tích cực tìm kiếm tài liệu học tập của học sinh. Ví dụ: Để dạy tốt bài 26: Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp(1950-1953) (lịch sử 9) giáo viên giao nhiệm vụ cho học sinh về nhà tìm hiểu nội dung của bài học theo các câu hỏi cuối mỗi mục trong bài, và yêu cầu các em thể hiện những hiểu biết của mình về hoàn cảnh, âm mưu của Pháp, chủ trương của ta, diễn biến, kết quả, ý nghĩa của chiến dịch Biên giới năm 1950 trên sơ đồ tư duy . Sau đó đến lúc dạy bài mới giáo viên cho học sinh đối chiếu so sánh nội dung đã chuẩn bị ở nhà xem đúng không, đầy đủ chưa, đồng thời giáo viên phải chuẩn bị một bản đồ tư duy có đầy đủ nội dung kiến thức của bài học này để giới thiệu và nhấn mạnh kiến thức cho học sinh nắm chắc, nhớ sâu bài học:
  12. 3.5. Sử dụng bản đồ tư duy hỗ trợ cho tiết tổng kết ôn tập kiến thức: Sau mỗi chương, mỗi phần, giáo viên cần phải tổng kết, ôn tập, hệ thống hóa kiến thức cho học sinh trước khi các em làm bài tập và làm bài kiểm tra chương, kiểm tra học kì, thi cuối năm. Với thế mạnh của bản đồ tư duy là kiến thức được hệ thống hóa dưới dạng sơ đồ, các đường nối là sự diễn tả mạch lôgic kiến thức hoặc các mối quan hệ nhân quả hay quan hệ tương đương, cộng thêm màu sắc của các đường nối, màu sắc của các đơn vị kiến thức, sẽ giúp học sinh nhìn thấy “Bức tranh tổng thể” cả một phần kiến thức đã học. Có nhiều cách xây dựng bản đồ tư duy trong tiết ôn tập, củng cố: - Thông thường giáo viên cho một số câu hỏi và bài tập để học sinh chuẩn bị ở nhà. Trong tiết ôn tập, củng cố, giáo viên hướng dẫn học sinh tự lập bản đồ tư duy, sau đó cho học sinh trao đổi kết quả với nhau và sau cùng đối chiếu với bản đồ tư duy do giáo viên lập ra. Từng em có thể bổ sung hay sửa lại bản đồ tư duy của mình và coi đó là tài liệu ôn tập của mình. - Cách khác: Giáo viên lập bản đồ tư duy mở. Trong giờ ôn tập, củng cố, giáo viên chỉ vẽ một số nhánh chính, thậm chí không đủ nhánh, hoặc thiếu, hoặc thừa thông tin trong tiết học đó, giáo viên yêu cầu học sinh tự bổ sung, thêm hoặc bớt thông tin, để cuối cùng toàn lớp lập được một bản đồ tư duy ôn
  13. tập, củng cố kiến thức chương đó tương đối hoàn chỉnh và hợp lý. Cách làm này sẽ lôi cuốn được sự tham gia của học sinh( suy nghĩ nhiều hơn, trao đổi nhiều hơn, tranh luận nhiều hơn) và giờ ôn tập, tổng kết chương sẽ không tẻ nhạt và có chất lượng hơn. - Bên cạnh đó còn có cách khác như chia nhóm và từng nhóm lập bản đồ tư duy. Sau đó các nhóm lên trình bày bản đồ tư duy của nhóm, các nhóm khác nhận xét về các mặt như sau: + Nội dung cơ bản kiến thức trong chương đã đủ chưa? Còn sót kiến thức nào không? + Cách trình bày đã hợp lý chưa? Vị trí các thông tin như thế nào? + Cấu trúc của bản đồ tư duy đã hợp lý chưa? + Màu sắc đã hợp lý chưa? Đã làm nổi bật nội dung cơ bản chưa? + Nhìn tổng thể có hợp lý không, có hấp dẫn được người học không? Với cách lập bản đồ tư duy như trên, chắc chắn giờ ôn tập, củng cố kiến thức sẽ mang lại hiệu quả cao. Chương III: Kiểm chứng các giải pháp đã triển khai của sáng kiến: Qua một số năm dạy lịch sử khối 8,9 tôi nhận thấy rằng: Việc sử dụng bản đồ tư duy trong các tiết học lịch sử làm cho tiết dạy sinh động, học sinh hứng thú học tập hơn, yêu thích bộ môn hơn. Đồng thời, học sinh rèn thêm được nhiều kĩ năng, phát triển hơn về khả năng tư duy lô gic. Nhiều em học sinh từ lười học, không thích hoặc tiếp thu chậm thì các em đã chăm học hơn, yêu thích bộ môn hơn. Kết quả xếp loại giỏi, khá mỗi năm học đều tăng hơn so với những năm học trước. Để nắm bắt được hiệu quả của việc ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy học lịch sử tôi đã tiến hành thử nghiệm thường xuyên đối với lớp 9A, 9B ,9C, 8A còn đối với lớp 8B thì ít thực hiện. Kết quả qua bài kiểm tra thu được như sau:
  14. Sĩ Giỏi Khá TB Yếu Kém Lớp số SL % SL % SL % SL % SL % 9A 34 25 73,5 9 26,5 0 0 0 0 0 0 9B 28 13 46,4 9 32,1 6 21,5 0 0 0 0 9C 31 13 41,9 11 35,5 7 22,6 0 0 0 8A 36 12 33,3 14 38,9 9 25 1 2,8 0 0 8B 35 8 22,9 11 31,4 12 34,2 4 11,5 0 0 Qua bảng thống kê trên cho thấy rằng đối với những lớp được thường xuyên sử dụng bản đồ tư duy trong giờ học lịch sử các em đã yêu thích bộ môn hơn, nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của bộ môn và nắm kiến thức một cách ó hệ thống, sâu sắc hơn. Còn đối với những lớp không được thực hiện thường xuyên thì chất lượng hạn chế hơn rất nhiều. Phần 3: KẾT LUẬN 1. Những vấn đề quan trọng nhất được đề cập đến của sáng kiến: - Thứ nhất: Sáng kiến nêu bật được mục đích của việc ứng dụng bản đồ tư duy trong dạy học lịch sử là nhằm giúp cho học sinh yêu thích bộ môn, hiểu sâu những kiến thức lịch sử và nghi nhớ nó một cách có hệ thống . Đồng thời qua đó mà hình thành và phát triển khẳ năng tư duy, lô gíc và những kĩ năng nhất định cho học sinh. - Thứ hai: Sáng kiến đã nêu rõ những giải pháp, biện pháp sử dụng bản đồ tư duy để trình bày và khai thác nội dung các bài học giúp học sinh biết, hiểu và ghi nhớ kiến thức một cách có hệ thống. Từ đó mà nâng cao chất lượng dạy học bộ môn ở cả ba mặt: Kiến thức, tư tưởng và kĩ năng. 2. Hiệu quả thiết thực của sáng kiến nếu được triển khai: Đổi mới phương pháp dạy và học là điều mà ngành giáo dục luôn cố gắng thực hiện để nâng cao chất lượng đào tạo.
  15. Theo đánh giá của nhiều giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, bản đồ tư duy sau khi ứng dụng vào các tiết học đã mang lại hiệu quả thiết thực như: Giúp học sinh thuộc bài ngay tại lớp, nhớ nhanh, nhớ sâu và lâu những nội dung của bài học. Mặt khác, dạy học bằng bản đồ tư duy giúp học sinh không nhàm chán về bài học mà luôn sôi nổi, hào hứng từ đầu đến cuối tiết học. Phương pháp này đặc biệt có ích trong việc củng cố kiến thức và rèn luyện, phát triển tư duy logic, năng lực cho học sinh, nhất là những học sinh khá, giỏi. Học sinh có thể tự học ở nhà rất hiệu quả, không tốn kém. Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học cho thấy, sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức và hội họa” là niềm vui sáng tạo hàng ngày của học sinh và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo và phụ huynh học sinh khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên bản đồ tư duy), hệ thống hóa kiến thức (huy động những điều đã học trước đó chọn lọc các ý để ghi), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc). Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học lịch sử nói riêng và dạy học nói chung là một phương pháp có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có thể thiết kế bản đồ tư duy trên giấy, bìa, bảng phụ, bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn màu hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm Việc vận dụng bản đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng bản đồ tư duy kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, có tính khả thi cao góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng bộ môn, thực
  16. hiện được chủ trương của ngành là không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục 3. Kiến nghị với các cấp quản lý: Phòng giáo dục và nhà trường nên có các chuyên đề bồi dưỡng cho giáo viên, nên mua bản quyền các phần mềm iMind Map cho giáo viên sử dụng. Nhà trường nên cho học sinh tham gia các hoạt động có sử dụng bản đồ tư duy, ví dụ trong sinh hoạt Đội, tổ chức hội thi vẽ bản đồ tư duy trong toàn trường, Người viết: Lê Kim Liên
  17. Phần 4: PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: 1. Sánh giáo khoa lịch sử lớp 8, 9 2. Sách giáo viên lịch sử8, 9 3. Tài liệu tập huấn chuyên môn “Ứng dụng công nghệ thông tin đổi mới phương pháp dạy học và công tác quản lí nhà trường” 4. Tài liệu tập huấn chuyên môn “ Một số vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học ờ cấp THCS”