SKKN Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng công tác giáo dục thể chất ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế

doc 99 trang vanhoa 4870
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng công tác giáo dục thể chất ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_bien_phap_quan_ly_nang_cao_chat_luong_cong_tac_giao_duc.doc

Nội dung tóm tắt: SKKN Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng công tác giáo dục thể chất ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế

  1. MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa Lời cam đoan Lời cám ơn Mục lục Danh mục các chữ viết tắt Danh mục các bảng, biểu đồ, sơ đồ . MỞ ĐẦU . NỘI DUNG NGHIÊN CỨU Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác GDTC ở trường THPT . 1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề 1.2. Cơ sở lý luận về quản lý nhà trường . 1.3. Trường THPT trong hệ thống giáo dục quốc dân . 1.4. Công tác GDTC ở trường THPT 1.5. Chất lượng công tác GDTC và vai trò quản lý của HT trong việc nâng cao chất lượng công tác GDTC ở trường THPT Chương 2: Thực trạng quản lý công tác GDTC của HT các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế 2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và GD-ĐT của huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế 2.2. Khái quát quá trình khảo sát thực trạng . 2.3. Thực trạng công tác GDTC ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế 2.4. Thực trạng quản lý của HT đối với công tác GDTC ở các trường THPT huyện Phong Điền 2.5. Nhận định, đánh giá chung về thực trạng công tác quản lý hoạt động GDTC của HT các trường THPT huyện Phong Điền Chương 3: Các biện pháp quản lý của HT nhằm nâng cao chất lượng công tác GDTC ở các trường THPT trên địa bàn huyện Phong Điền 3.1. Cơ sở đề xuất các biện pháp 3.2. Các biện pháp cụ thể 1
  2. 3.2.1. Nhóm các biện pháp nâng cao nhận thức về công tác GDTC ở trường THPT . 3.2.2. Nhóm các biện pháp tăng cường công tác quản lý dạy học môn thể dục chính khóa . 3.2.3. Nhóm các biện pháp quản lý công tác GDTC ngoài giờ . 3.2.4. Nhóm các biện pháp xây dựng đội ngũ GV giảng dạy bộ môn thể dục 3.2.5. Nhóm các biện pháp tổ chức các điều kiện hỗ trợ, đáp ứng hoạt động GDTC 3.2.6. Mối quan hệ giữa các biện pháp 3.3. Khảo nghiệm nhận thức về tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp . 3.3.1. Về tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất . 3.3.2. Nhận thức về những thuận lợi và khó khăn khi thực hiện các biện pháp KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ . TÀI LIỆU THAM KHẢO . PHỤ LỤC 2
  3. DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT CBQL Cán bộ quản lý CBQLGD Cán bộ quản lý giáo dục GDĐT Giáo dục đào tạo GDTC Giáo dục thể chất GV Giáo viên CB Cán bộ NV Nhân viên HKPĐ Hội khỏe Phù Đổng HT Hiệu trưởng HS Học sinh NXB Nhà xuất bản QLGD Quản lý giáo dục TDTT Thể dục thể thao THPT Trung học phổ thông XHCN Xã hội chủ nghĩa 3
  4. A. MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Sức khỏe và trí tuệ là hai thứ quý nhất, là tài sản vô giá của mỗi người, mỗi gia đình, mỗi quốc gia. Giữa sức khỏe và trí tuệ có mối quan hệ hữu cơ với nhau, cùng hỗ trợ cho nhau trong quá trình hoạt động của con người. Có sức khỏe tốt con người mới đủ minh mẫn, hưng phấn, sáng tạo trong học tập, công tác; có sức khỏe tốt con người mới thực hiện được ước mơ, hoài bão của mình, đem lại hiệu quả cao trong học tập, lao động, phục vụ được nhiều cho nhân dân, cho đất nước. Nhận thức được vai trò quan trọng của việc nâng cao sức khỏe cho nhân dân, ngay từ những ngày đầu của nước Việt Nam mới, trong lời kêu gọi toàn dân tập thể dục, ngày 27 tháng 3 năm 1946, Bác Hồ đã nhắc nhở: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới thành công ”. Trong giai đoạn hiện nay, vai trò của con người chiếm một vị trí rất quan trọng, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp đổi mới. Chăm lo cho thế hệ trẻ trong sự nghiệp đổi mới chính là chăm lo đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho tương lai. Đó là chăm lo toàn diện về nhiều mặt, trong đó có mặt quan trọng và tất yếu là về sức khỏe thể chất, bởi vì sự cường tráng về thể chất không những là nhu cầu tự thân con người mà còn là vốn quý để con người tạo ra tài sản vật chất và tinh thần cho xã hội. Theo tinh thần của Nghị quyết Trung ương khóa VII: Muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh không những chỉ cần có con người phát triển cao về trí tuệ, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, lối sống mà còn phải cường tráng về thể chất. Chăm lo cho con người phát triển về thể chất là trách nhiệm của mọi người, mọi ngành, của toàn xã hội. Bởi vậy giáo dục thể chất (GDTC) và hoạt động thể dục thể thao (TDTT) trong nhà trường các cấp là một trong những nội dung cơ bản góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước đòi hỏi giáo dục phải tạo ra những con người phát triển toàn diện về trí dục, đức dục, thể dục, mỹ dục và nghề nghiệp. Vì vậy giáo dục thể chất trong hệ thống giáo dục nói chung và trong nhà trường nói riêng có ý nghĩa rất to lớn trong việc phát huy và bồi dưỡng nhân tố con người, góp 4
  5. phần không nhỏ nâng cao thể lực, giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống lành mạnh, làm phong phú đời sống văn hoá và phát huy tinh thần dân tộc của con người Việt Nam, tăng cường và giữ vững an ninh quốc phòng cho đất nước. Chỉ thị số 36-CT/TW, ngày 24 tháng 3 năm 1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về công tác TDTT trong giai đoạn mới yêu cầu: “Thực hiện giáo dục thể chất trong tất cả các trường học, làm cho việc tập luyện thể dục thể thao trở thành nếp sống hàng ngày của hầu hết học sinh, sinh viên ”. Qua 3 năm thực hiện, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã có tổng kết như sau: Việc tập luyện thể dục nội khóa, ngoại khóa trong các trường học đã có tổ chức và đầy đủ hơn, phong trào TDTT quần chúng, hội khỏe Phù Đổng các cấp, nhất là cơ sở đã tiến hành thường xuyên, có hệ thống. Tuy nhiên, công tác GDTC trong các trường học còn nhiều bất cập; nhận thức của các cấp quản lý giáo dục còn hạn chế, chất lượng giảng dạy, học tập còn thấp, hiệu quả chưa cao Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 01/12/2011 của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020” đã nêu quan điểm: “Phát triển thể dục, thể thao là một yêu cầu khách quan của xã hội, nhằm góp phần nâng cao sức khoẻ, thể lực và chất lượng cuộc sống của nhân dân, chất lượng nguồn nhân lực; giáo dục ý chí, đạo đức, xây dựng lối sống và môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác quốc tế; đồng thời, là trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội và của mỗi người dân. Các cấp ủy đảng có trách nhiệm thường xuyên lãnh đạo công tác thể dục, thể thao, bảo đảm cho sự nghiệp thể dục, thể thao ngày càng phát triển” [29, 1]. Nghị quyết cũng đã nêu lên những nhiệm vụ và giải pháp đối với công tác phát triển sự nghiệp thể dục, thể thao nước nhà đến năm 2020, trong đó đề cập đến việc “nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong trường học”; khẳng định “Thể dục thể thao trường học là bộ phận quan trọng của phong trào thể dục, thể thao, một mặt của giáo dục toàn diện nhân cách học sinh, sinh viên, cần được quan tâm đầu tư đúng mức”. Nhiệm vụ đặt ra là “Thực hiện tốt giáo dục thể chất theo chương trình nội khóa; phát triển mạnh các hoạt động thể thao của học sinh, sinh viên, bảo đảm mục tiêu phát triển thể lực toàn diện và kỹ năng vận động cơ bản của học sinh, sinh viên và góp phần đào tạo năng khiếu và tài năng thể thao. 5
  6. Đổi mới chương trình và phương pháp giáo dục thể chất, gắn giáo dục thể chất với giáo dục ý chí, đạo đức, giáo dục quốc phòng, giáo dục sức khỏe và kỹ năng sống của học sinh, sinh viên. Đãi ngộ hợp lý và phát huy năng lực đội ngũ giáo viên thể dục hiện có, mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, hướng dẫn viên thể dục cho trường học; củng cố các cơ sở nghiên cứu khoa học về tâm sinh lý lứa tuổi và thể dục, thể thao trường học”. Vì vậy, nâng cao chất lượng công tác GDTC trong tình hình mới hiện nay là một yêu cầu có tính nguyên tắc đặt ra đối với các nhà trường, đòi hỏi nhiều tác động, trong đó công tác quản lý của người Hiệu trưởng (HT) đóng vai trò rất quan trọng. Trong những năm qua, các trường THPT trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế đã có nhiều cố gắng và đã đạt được những kết quả khá tốt trong việc nâng cao chất lượng GDTC. Song nhìn từ góc độ của khoa học quản lý thì việc quản lý hoạt động GDTC của HT chưa mang tính khoa học, chưa có tầm nhìn lâu dài, chưa có cơ sở khoa học vững chắc để đảm bảo sự phát triển cao hơn chất lượng công tác GDTC; chưa thực sự coi hoạt động dạy học môn GDTC là một hoạt động chuyên môn quan trọng trong nhà trường, việc chỉ đạo tổ chức các hoạt động nội, ngoại khóa TDTT chưa thường xuyên, hình thức chưa phong phú, hiệu quả giáo dục còn hạn chế. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về quản lý nhà trường, tuy nhiên công trình nghiên cứu về quản lý hoạt động GDTC của HT nhà trường nói chung, của HT trường THPT nói riêng vẫn còn ít. Việc đánh giá đúng thực trạng và đề xuất các biện pháp quản lý phù hợp sẽ góp phần nâng cao chất lượng công tác GDTC cho học sinh. Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu và thực hiện đề tài: “Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng công tác giáo dục thể chất ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế”. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Nghiên cứu của đề tài nhằm đánh giá thực trạng quản lý của HT đối với công tác GDTC, trên cơ sở đó xác lập các biện pháp quản lý có hiệu quả nhằm nâng cao chất lượng công tác GDTC ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. 6
  7. 3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 3.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý của người HT trường THPT. 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp quản lý nâng cao chất lượng công tác giáo dục thể chất ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. 4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC GDTC là một nội dung trong những nội dung giáo dục toàn diện ở nhà trường. Nếu đánh giá đúng thực trạng, xác lập được các biện pháp tổ chức, quản lý khoa học, phù hợp với thực tiễn thì có thể nâng cao chất lượng hoạt động GDTC ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế, đáp ứng được mục tiêu giáo dục HS phát triển toàn diện theo quan điểm của Đảng. 5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của công tác GDTC ở trường THPT. 5.2. Đánh giá thực trạng quản lý công tác GDTC của HT các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. 5.3. Xác lập các biện pháp quản lý nhằm nâng cao chất lượng công tác GDTC ở trường THPT. 6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 6.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận: Sử dụng các phương pháp: Phân tích - tổng hợp, phân loại tài liệu nhằm thu thập những thông tin cho tổng quan lý luận của vấn đề nghiên cứu. 6.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Sử dụng các phương pháp: Phương pháp quan sát; Phương pháp điều tra, anket; Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn; Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng và xây dựng cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các biện pháp. 6.3. Phương pháp thống kê toán học: Nhằm xử lý các kết quả nghiên cứu. 7. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 7.1. Đề tài nghiên cứu được tiến hành ở các trường THPT trên địa bàn huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế (gồm 04 trường: THPT Nguyễn Đình Chiểu, THPT Phong Điền, THPT Trần Văn Kỷ, THPT Tam Giang). 7.2. Nghiên cứu của đề tài giới hạn trong phạm vi công tác GDTC ở các trường THPT. 7
  8. 8. CẤU TRÚC LUẬN VĂN Luận văn gồm 3 phần: Phần mở đầu: Đề cập đến những vấn đề chung của đề tài. Phần nội dung: Gồm 3 chương. Chương 1: Cơ sở lý luận về quản lý công tác GDTC ở trường THPT. Chương 2: Thực trạng quản lý của Hiệu trưởng đối với công tác GDTC ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chương 3: Các biện pháp quản lý của Hiệu trưởng nhằm nâng cao chất lượng công tác GDTC ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Phần kết luận và khuyến nghị Tài liệu tham khảo Phụ lục 8
  9. B - NỘI DUNG NGHIÊN CỨU CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC THỂ CHẤT Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG 1.1. Khái quát lịch sử nghiên cứu vấn đề Trong những năm qua đã có nhiều đề tài nghiên cứu về sự phát triển thể chất của thanh thiếu niên, học sinh như: Bộ Giáo dục và Đào tạo đã phối hợp với vụ TDTT quần chúng (ủy ban TDTT), Viện khoa học TDTT và 12 sở GD- ĐT đại diện cho các vùng, miền của cả nước đã tiến hành khảo sát thể chất HS phổ thông từ 7 đến 18 tuổi vào năm 1996, trên các chỉ tiêu cơ bản về hình thái và một số chỉ tiêu về tố chất thể lực (Sức mạnh, nhanh, bền, khéo léo). Kết quả đã được tổng kết trong tài liệu: "Thực trạng phát triển thể chất của HS, sinh viên trước thềm thế kỷ 21" của Lê Văn Lẫm (chủ biên). Để làm rõ thêm tầm quan trọng của công tác GDTC và cung cấp những thông tin về hoạt động GDTC của một số nước trên thế giới, các tác giả: Lê Văn Lẫm và Phạm Trọng Thanh trong tài liệu: "Giáo dục thể chất ở một số nước trên thế giới", đã giới thiệu một số tư liệu về chương trình GDTC và tiêu chuẩn rèn luyện thân thể của một số nước trên thế giới. Hội nghị khoa học GDTC, sức khoẻ ngành GD-ĐT lần thứ 2 được tổ chức trong tháng 5 năm 1998, tại trường Đại học quốc dân Hà Nội và lần thứ 3 năm 2001 tổ chức tại trường Cao đẳng sư phạm TDTT Trung ương I Hà Tây đã kế thừa và tiếp tục phát triển những kết quả nghiên cứu và thành tựu đã đạt được trên lĩnh vực GDTC trong những năm qua. Tuy nhiên những đề tài nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc khảo sát thực trạng chung của một số đơn vị và đề ra các biện pháp cải tiến công tác tổ chức giảng dạy bộ môn thể dục, còn vấn đề về công tác quản lý chỉ đạo của người HT đối với mặt hoạt động này thì chưa được đề cập đến. Đặc biệt hiện nay, do điều kiện kinh tế xã hội mỗi vùng miền khác nhau, cơ sở vật chất phục vụ cho các hoạt động GDTC nhiều vùng miền đang mất cân đối, thậm chí có nơi GV TDTT còn thiếu phải sử dụng GV các bộ môn khác đảm nhận công tác giảng dạy kiêm nhiệm. Những biện pháp quản lý đã được nêu ra, nhưng thực chất, đó vẫn là những biện pháp chung thường thấy trong các bài giảng về quản lý nhà trường. Để người HT làm đúng chức năng quản lý của mình, nếu chỉ nêu ra các yêu cầu về công việc GV phải thực hiện thôi thì chưa đủ. Điều chủ yếu là người HT phải thực 9
  10. hiện các biện pháp quản lý đúng đắn nhằm tổ chức, chỉ đạo nâng cao chất lượng công tác GDTC, đạt được yêu cầu, nhiệm vụ đào tạo. Ở địa bàn nghiên cứu, trước yêu cầu đòi hỏi nâng cao chất lượng công tác GDTC, thực tế đã và đang đặt ra nhiều vấn đề cần được giải quyết, trong đó công tác quản lý là một vấn đề đặc biệt quan trọng. Tuy vậy, vấn đề này chưa được quan tâm đúng mức và nghiên cứu đầy đủ. Đề tài nghiên cứu của chúng tôi nhằm đánh giá thực trạng và xác lập các biện pháp quản lý giúp người HT các trường THPT tổ chức, quản lý tốt công tác GDTC, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở địa phương. 1.2. Cơ sở lý luận về quản lý nhà trường 1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường 1.2.1.1. Khái niệm quản lý Quản lý là một hoạt động phổ biến diễn ra trong mọi lĩnh vực xã hội, đặc biệt nó có liên quan mật thiết đến sự hợp tác và phân công lao động. Khi những con người cùng hoạt động vì một mục đích chung nào đó, để đạt được mục đích đề ra cần phải có sự quản lý. C.Mác đã xem quản lý là kết quả tất yếu của quá trình phát triển lao động xã hội. Ông viết: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến một sự chỉ đạo để điều hành những hoạt động cá nhân và thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người độc tấu vĩ cầm tự điều khiển lấy mình, còn một dàn nhạc thì cần phải có một nhạc trưởng”. Có nhiều cách định nghĩa về khái niệm quản lý. Tuỳ theo mỗi quan điểm tiếp cận người ta có các cách định nghĩa khác nhau: Quản lý là hoạt động hay tác động có định hướng, có chủ định của chủ thể quản lý đến khách thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành và đạt được mục đích của tổ chức” [5, 1]. Quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các hoạt động (chức năng) kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo (lãnh đạo) và kiểm tra [5, 1]. Quản lý là việc đảm bảo sự hoạt động của hệ thống trong điều kiện có sự biến đổi liên tục của hệ thống và môi trường, là chuyển hệ thống đến trạng thái mới thích ứng với hoàn cảnh mới [21, 15]. Như vậy, các định nghĩa về quản lý đều hướng đến hiệu quả công tác quản lý, phụ thuộc vào các yếu tố: chủ thể quản lý, khách thể quản lý, mục đích hướng đến của công tác quản lý bằng tác động từ chủ thể đến khách thể quản lý nhờ công cụ và phương pháp quản lý. Mục tiêu hay mục đích chung của hoạt động quản lý, có thể do chủ thể quản lý áp đặt, do yêu cầu khách quan của xã hội hay do có sự cam kết, thoả thuận giữa chủ thể 10 Công cụ Chủ thể quản lý Khách thể Mục tiêu Phương pháp
  11. quản lý và khách thể quản lý, từ đó nảy sinh các mối tác động tương hỗ giữa chủ thể và khách thể quản lý. Quá trình tác động này có thể được thể hiện qua sơ đồ sau: Công cụ Chủ thể quản lý Khách thể Mục tiêu Phương pháp Cho dù cách tiếp cận nào thì bản chất của hoạt động quản lý là cách thức tác động (tổ chức, điền khiển, chỉ huy) hợp qui luật của chủ thể quản lý trong một tổ chức nhằm làm cho tổ chức vận hành đạt hiệu quả mong muốn và đạt được mục tiêu đã đề ra. 1.2.1.2. Quản lý giáo dục Giáo dục là một hiện tượng xã hội, bản chất của nó là nhằm truyền đạt những kinh nghiệm, những sáng tạo trong đấu tranh thiên nhiên và đấu tranh xã hội của thế hệ trước cho thế hệ sau. Chính vì vậy vai trò của giáo dục có một vị trí cực kỳ quan trọng, là một thành tố tích cực thúc đẩy sự phát triển xã hội, điều đó được khẳng định bởi chính sách đầu tư cho giáo dục của các quốc gia. Trong xã hội phát triển, quản lý cũng cần được thực hiện sự phân công và chuyên môn hoá lao động. Do đó đã tất yếu dẫn đến một lĩnh vực hoạt động có tính độc lập tương đối trong giáo dục, đó là công tác quản lý giáo dục (QLGD), đồng thời hình thành một đội ngũ những người lao động trong lĩnh vực này, đó là: cán bộ QLGD. P.V. Khu-đô-min-sky cho rằng: QLGD là sự tác động có hệ thống, có kế hoạch, có mục đích. Nói cách khác: QLGD chính là sự tác động có ý thức của chủ thể quản lý đến khách thế quản lý, nhằm đưa hoạt dộng giáo dục tới mục tiêu đã định, trên cơ sở nhận thức và vận dụng đúng những qui luật khách quan của hệ thống giáo dục quốc dân [21,2]. Khái niệm QLGD đã được nhiều nhà giáo dục nói đến. Xét theo hệ thống: có hệ thống giáo dục cấp cao (Trung ương - Bộ), hệ thống giáo dục cấp trung gian (Thành phố, Tỉnh - Sở, Phòng), hệ thống giáo dục cấp cơ sở (Nhà trường). Nội dung công tác của từng cấp là khác nhau. Sự khác nhau ấy do phân cấp quản lý quy định, do nhiệm vụ từng thời kỳ chi phối, do đặc điểm kinh tế - xã hội tác động. 1.2.1.3. Quản lý nhà trường Nhà trường là cơ sở giáo dục, đào tạo học sinh, là nơi thực thi mọi chủ trương, đường lối, chế độ chính sách, nội dung, phương pháp, tổ chức giáo dục và trực tiếp diễn 11
  12. ra lao động dạy của thầy, lao động học của trò, hoạt động của bộ máy quản lý trường học. Theo tác giả Phạm Minh Hạc: "Quản lý nhà trường là thực hiện đường lối giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, đưa nhà trường vận hành theo nguyên lý giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với ngành giáo dục, đối với thế hệ trẻ và với từng học sinh" [9, 22]. Từ đó, quản lý nhà trường được hiểu là một hệ thống những hoạt động có mục đích có kế hoạch, hợp quy luật của chủ thể quản lý, nhằm làm cho nhà trường vận hành theo đường lối và nguyên lý giáo dục của Đảng, thể hiện tính chất nhà trường XHCN, mà tiêu điểm hội tụ là quá trình dạy học, giáo dục thế hệ trẻ. 1.2.2. Các chức năng của quản lý nhà trường Hoạt động quản lý là quá trình đạt đến mục tiêu của tổ chức bằng cách vận dụng các chức năng quản lý. Chức năng quản lý là các dạng hoạt động tương đối độc lập được tách ra từ hoạt động quản lý. Có nhiều cách phân chia các chức năng quản lý nhưng tựu trung đều thống nhất bốn chức năng cơ bản và chủ yếu sau: Kế hoạch hoá, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra. 1.2.2.1. Kế hoạch hoá: Là xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu tương lai của tổ chức và con đường, biện pháp, cách thức để đạt được mục tiêu, mục đích đó. Có ba nội dung chủ yếu của chức năng kế hoạch hoá: Một là, xác định, hình thành mục tiêu (phương hướng) đối với tổ chức. Hai là, xác định và đảm bảo về các nguồn lực của tổ chức, để đạt được mục tiêu này. Ba là, trên cơ sở đó quyết định xem những hoạt động nào là cần thiết để đạt được các mục tiêu đã đề ra. 1.2.2.2. Tổ chức: Tổ chức là quá trình hình thành nên cấu trúc các quan hệ giữa các thành viên, giữa các bộ phận trong một tổ chức nhằm làm cho họ thực hiện thành công các kế hoạch và đạt được mục tiêu tổng thể của tổ chức. Nhờ việc tổ chức có hiệu quả, người quản lý có thể phối hợp, điều phối tốt hơn các nguồn nhân lực và vật lực khác. Thành tựu của một tổ chức phụ thuộc rất nhiều vào năng lực và phong cách của chủ thể quản lý, phụ thuộc vào việc huy động và sử dụng các nguồn lực, cũng như tạo động lực, đặc biệt là năng lực nội sinh của tổ chức. Một tổ chức lành mạnh sẽ có ý nghĩa quyết định đối vói việc chuyển hoá kế hoạch thành hiện thực. V.I Lênin đã từng khẳng định: "Tổ chức là cương lĩnh thứ hai". 1.2.2.3. Chỉ đạo (lãnh đạo): Sau khi kế hoạch đã được thiết lập, cơ cấu bộ máy 12
  13. đã được hình thành, nhân sự đã được tuyển dụng thì phải có người đứng ra lãnh đạo, dẫn dắt tổ chức. Một số học giả gọi đó là quá trình chỉ đạo hay tác động. Chỉ đạo là quá trình liên kết, liên hệ giữa các thành viên trong tổ chức, tập hợp động viên họ hoàn thành những nhiệm vụ nhất định để đạt được mục tiêu của tổ chức. Theo quan điểm hệ thống, chỉ đạo là quá trình vận hành, điều khiển hệ thống. 1.2.2.4. Kiểm tra: Là quá trình theo dõi, giám sát các thành quả hoạt động và tiến hành những hoạt động sửa chữa, uốn nắn nếu cần thiết. Nó diễn ra có tính chu kỳ như: Người quản lý đặt ra những chuẩn mực thành đạt của hoạt động. Người quản lý đối chiếu, đo lường kết quả sự thành đạt so vói chuẩn mực đặt ra. Người quản lý tiến hành điều chỉnh những sai lệch. Người quản lý hiệu chỉnh, sửa lại chuẩn mực nếu cần [5; 4]. 1.2.3. Nội dung của công tác quản lý nhà trường Quản lý quá trình giáo dục đào tạo (GDĐT): Mục tiêu giáo dục; nội dung giáo dục; phương pháp giáo dục; hình thức tổ chức giáo dục; quá trình dạy học và giáo dục của giáo viên (GV); quá trình học và tự giáo dục của HS; kết quả giáo dục. Quản lý cơ sở vật chất và các thiết bị dạy học. Quản lý hành chính - tài chính. Quản lý nhân sự: GV, cán bộ, nhân viên, HS. Quản lý môi trường giáo dục. Trong đó quản lý quá trình giáo dục là trung tâm. 1.3. Trường THPT trong hệ thống giáo dục quốc dân Giáo dục THPT nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, là cấp học cuối cùng của bậc giáo dục phổ thông (gồm ba cấp: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông) [2, 5]. Trường THPT xã hội chủ nghĩa có tính chất phổ thông, lao động, kỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp và chuẩn bị nghề. Tính chất của trường THPT thể hiện trong cơ cấu tổ chức, trong toàn bộ hoạt động giảng dạy, giáo dục, học tập và các mặt công tác khác của trường. 1.3.1. Nhiệm vụ của trường THPT Trường THPT có những nhiệm vụ sau đây: Tổ chức giảng dạy, học tập và các hoạt động giáo dục khác theo mục tiêu, chương trình giáo dục phổ thông dành cho cấp THPT do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. 13
  14. Tuyển sinh và tiếp nhận HS; vận động HS đến trường; quản lý HS theo quy định của Bộ GDĐT. Quản lý GV, cán bộ, nhân viên theo quy định của pháp luật. Quản lý, sử dụng và bảo quản cơ sở vật chất, trang thiết bị theo quy định của Nhà nước. Huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực cho hoạt động giáo dục. Phối hợp với gia đình học sinh, tổ chức và cá nhân trong hoạt động giáo dục. Tổ chức cho GV, nhân viên, học sinh tham gia các hoạt động xã hội và thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của pháp luật [2,5]. 1.3.2. Mục tiêu quản lý của trường THPT Trước khi xem xét mục tiêu quản lý của trường THPT cần xem xét mục tiêu của giáo dục phổ thông nói chung và mục tiêu của giáo dục THPT nói riêng. Luật Giáo dục (2005) xác định: "Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp HS phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bả, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.” [15,17] "Mục tiêu của giáo dục THPT nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi vào cuộc sống lao động." [15,17]. Trên cơ sở của các mục tiêu giáo dục THPT, các mục tiêu cụ thể trong quản lý trường học hợp thành hệ mục tiêu sau đây: Mục tiêu về phát triển số lượng. Mục tiêu về nâng cao chất lượng đào tạo. Mục tiêu về xây dựng đội ngũ trở thành tập thể sư phạm dân chủ, đoàn kết, đủ về số lượng, mạnh về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu. Mục tiêu xây dựng cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ cho hoạt động dạy học và các hoạt động giáo dục khác. Mục tiêu về xây dựng hệ thống chính trị trong trường học và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Mục tiêu về phối hợp gia đình và các lực lượng xã hội tham gia xây dựng nhà 14
  15. trường, tham gia quá trình đào tạo HS, thực hiện "xã hội hoá sự nghiệp giáo dục". Hệ thống các mục tiêu quản lý ấy phải được thực hiện đồng bộ, song trong từng giai đoạn cẩn phải xác định "mục tiêu ưu tiên" và coi đó là "nút nhấn" chiến lược. Đối với trường THPT mục tiêu ưu tiên là mục tiêu phát triển và nâng cao chất lượng GDĐT. 1.3.3. Hiệu trưởng trường THPT và công tác quản lý nhà trường Về mặt nhà nước, HT là thủ trưởng trường học, đại diện cho nhà trường về mặt pháp lý, có trách nhiệm và thẩm quyền cao nhất về mặt hành chính và chuyên môn trong nhà trường, chịu trách nhiệm trước chính quyền và cơ quan quản lý cấp trên về tổ chức và quản lý toàn bộ hoạt động của nhà trường. Về mặt quản lý, HT có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: Xây dựng, tổ chức bộ máy nhà trường; Thực hiện các quyết nghị của Hội đồng trường được quy định tại khoản 3 Điều 20 của Điều lệ trường trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học; Xây dựng quy hoạch phát triển nhà trường; xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch nhiệm vụ năm học; báo cáo, đánh giá kết quả thực hiện trước Hội đồng trường và các cấp có thẩm quyền; Thành lập các tổ chuyên môn, tổ văn phòng và các hội đồng tư vấn trong nhà trường; bổ nhiệm tổ trưởng, tổ phó; đề xuất các thành viên của Hội đồng trường trình cấp có thẩm quyền quyết định; Quản lý giáo viên, nhân viên; quản lý chuyên môn; phân công công tác, kiểm tra, đánh giá xếp loại giáo viên, nhân viên; thực hiện công tác khen thưởng, kỉ luật đối với giáo viên, nhân viên; thực hiện việc tuyển dụng giáo viên, nhân viên; ký hợp đồng lao động; tiếp nhận, điều động giáo viên, nhân viên theo quy định của Nhà nước; Quản lý học sinh và các hoạt động của học sinh do nhà trường tổ chức; xét duyệt kết quả đánh giá, xếp loại học sinh, ký xác nhận học bạ, ký xác nhận hoàn thành chương trình và quyết định khen thưởng, kỷ luật học sinh; Quản lý tài chính, tài sản của nhà trường; Thực hiện các chế độ chính sách của Nhà nước đối với giáo viên, nhân viên, học sinh; tổ chức thực hiện quy chế dân chủ trong hoạt động của nhà trường; thực hiện công tác xã hội hoá giáo dục của nhà trường; Chỉ đạo thực hiện các phong trào thi đua, các cuộc vận động của ngành; thực hiện 15
  16. công khai đối với nhà trường; Được đào tạo nâng cao trình độ, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ và hưởng các chế độ, chính sách theo quy định của pháp luật [2,13]. Gánh trên vai trọng trách như vậy, đòi hỏi người HT phải thường xuyên phấn đấu, rèn luyện để thể hiện tốt các vai trò sau đây: HT là người đại diện Nhà nước về mặt hành chính, thực thi các hoạt động quản lý trường học trên cơ sở pháp luật nhà nước và các văn bản qui phạm pháp luật của các cơ quan quản lý hữu quan. HT là người đại diện cho chính quyền về mặt thi hành luật, HT quản lý hành chính nhà nước bằng pháp luật. HT trường THPT là một nhà sư phạm mẫu mực, đóng vai trò là con chim đầu đàn của tập thể sư phạm nhà trường bằng cách thường xuyên chăm lo việc bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ sư phạm cho đội ngũ, biết chăm sóc tinh hoa của đơn vị, biết trân trọng người tài năng. Muốn thực hiện tốt vai trò này ngưòi HT phải trải nghiệm trong cuộc sống, am tường về khoa học giáo dục, khoa học và phương pháp dạy học bộ môn, phải dạy giỏi một môn mà mình được đào tạo. HT trường THPT phải là nhà cách tân giáo dục, luôn luôn tìm tòi, đổi mới hoạt động sư phạm, đổi mới hoạt động quản lý nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục và hiệu quả công tác của bản thân. HT phải thực hiện tốt các mục tiêu và biết đón đầu sự phát triển. HT là nhà hoạt động xã hội, thực hiện nguyên lý "Nhà trường gắn liền với xã hội" và thực hiện "xã hội hoá giáo dục". HT phải tham gia các hoạt động xã hội với tư cách là người đại diện cho nhà trường nhằm thực hiện các nhiệm vụ mà xã hội qui định, đặt ra cho nhà trường. HT trường THPT phải thường xuyên phấn đấu để trở thành một nhân cách văn hoá. Với tư cách là người đứng đầu của nhà trường, HT phấn đấu không mệt mỏi cho việc duy trì phát triển và sáng tạo các định hướng giá trị của cộng đồng. Với quan niệm QLGD trên cả hai phương diện văn hoá và tư tưởng về một nhà trường dân chủ, nhân văn thì lại càng đòi hỏi người HT phải có phẩm chất của một nhà văn hoá. 1.4. Công tác giáo dục thể chất ở trường THPT 1.4.1. Một số khái niệm Thể chất: Cơ thể con người, về mặt sức khoẻ. [19, 916]. Thể chất chỉ chất lượng thân thể con người. Đó là những đặc trưng tương đối ổn định về hình thái và chức năng của cơ thể được hình thành và phát triển do bẩm sinh di truyền và điều kiện sống (bao gồm cả giáo dục, rèn luyện). [22,16]. Tư tưởng về con người phải được phát triển hài hoà giữa thể chất và tinh thần đã 16
  17. xuất hiện trong kho tàng văn hoá chung của xã hội loài người từ nhiều thế kỷ trước đây. Trong cuộc sống hằng ngày, sức khoẻ của con người là vốn quý nhất. Lênin khẳng định: "Tinh thần khoẻ mạnh phụ thuộc vào một thân thể khoẻ mạnh." [12,35]. Ngày nay, khi nói đến con người, nói đến nguồn lực con người trong thời kỳ mới là muốn đề cập đến sự phát triển ở họ cả đức, trí, thể, mỹ và lao động mà TDTT là một mặt không thể thiếu trong sự phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là việc bồi bổ sức khoẻ và thể lực đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công cuộc công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Giáo dục thể chất (gọi tắt là thể dục, hiểu theo nghĩa rộng của từ) GDTC là một quá trình giáo dục mà đặc trưng của nó thể hiện ở việc giảng dạy các động tác và giáo dục (điều khiển sự phát triển) các tố chất thể lực của con người[12,7]. Trong giáo dục học, giáo dục được hiểu là một quá trình tác động có mục đích, có kế hoạch, có phương pháp và phương tiện nhằm hình thành, phát triển những năng lực, phẩm chất của con người để đáp ứng những yêu cầu của một xã hội nhất định. Khái niệm GDTC nằm trong khái niệm chung của giáo dục theo nghĩa rộng, là một quá trình sư phạm, hướng vào việc bồi dưỡng kiến thức vận động rèn luyện thể lực, ý chí, trau dồi đạo đức, tác phong và các yếu tố tinh thần khác nhằm hoàn thiện cơ thể, hình thành kỹ năng, kỹ xảo vận động cơ bản của con người, phát triển các phẩm chất và khả năng về thể lực, hình thành lối sống lành mạnh, kéo dài thời gian hoạt động sáng tạo của con người, giúp con người thực hiện tốt nghĩa vụ lao động và bảo vệ Tổ quốc. GDTC được xác định trước hết là một quá trình truyền thụ và lĩnh hội các tri thức thuộc lĩnh vực TDTT, rèn luyện kỹ năng, hình thành các kỹ xảo vận động và phát triển các phẩm chất thể lực của con người, tổng hợp các nét đặc trưng ấy sẽ quyết định năng lực làm việc chủ yếu về mặt thể lực của con người, tạo nên sự phát triển hài hoà giữa thể chất và tinh thần . Để giải quyết những nhiệm vụ theo các đặc trưng của mình trong quá trình GDTC, cần phải tiến hành các hoạt động giảng dạy động tác và các phẩm chất thể lực. Về mặt thực tiễn, GDTC là một quá trình chuẩn bị thể lực cho con người để thực hiện các nhiệm vụ hoạt động do xã hội quy định (như lao động, học tập, sinh hoạt, ). Trong hệ thống các hiện tượng sư phạm thì GDTC có ý nghĩa hàng đầu, như một nhân tố chuyên môn để tác động có mục đích đến sự phát triển của con người và đến các thuộc tính tự nhiên có liên quan trực tiếp đến năng lực đó của cơ thể. GDTC là một lĩnh vực giáo dục được tiến hành dưới hình thức bắt buộc, thể hiện 17
  18. ở hai khía cạnh là: Giáo dục theo chương trình quy định trong nhà trường và giáo dục theo chương trình dựa trên nhu cầu và sở thích của HS (thể dục nội khoá và thể dục ngoại khoá). Phát triển thể chất Sự phát triển thể chất của con người là quá trình hình thành và biến đổi có quy luật các thuộc tính về hình thái, chức năng tự nhiên của cơ thể dưới ảnh hưởng của điều kiện sống, trong đó có giáo dục thể chất. Quá trình này phụ thuộc vào các quy luật về cuộc sống xã hội, trong đó giáo dục luôn luôn giữ vai trò chủ đạo; bởi lẽ một khi nắm vững và biết sử dụng một cách đúng đắn các quy luật khách quan đó của sự phát triển thể chất thì về nguyên tắc ta có thể điều khiển để nó đi đúng hướng, phù hợp với sự phát triển cá nhân và nhu cầu xã hội. Các khả năng điều khiển có mục đích sự phát triển thể chất đó hoàn toàn có thể được thực hiện trong quá trình GDTC. Các chỉ số đánh giá trình độ phát triển thể chất là: chiều cao, cân nặng, đồng thời là mức độ các tố chất thể lực và khả năng chức phận của cơ thể con người. Thể thao Trong thời kỳ cổ sơ, thể dục đã được xem là một biện pháp để rèn luyện thân thể, phát triển toàn diện con người. Nhưng để đánh giá kết quả của việc rèn luyện thể lực, cũng như các phẩm chất về ý chí, lòng dũng cảm, mưu trí cần phải có những hình thức kiểm tra, những cuộc đọ sức, đua tài, thi đấu. Hoạt động thể thao ra đời từ đó. Khái niệm thể thao ra đời muộn hơn GDTC, nó là một bộ phận hữu cơ của văn hoá thể chất, là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần do xã hội sáng tạo nên và được sử dụng vào hoạt động vui chơi giải trí, chủ yếu về mặt thể lực. Đặc trưng của nó là hoạt động thi đấu các động tác đã được quy định, các hình thái chức năng đã được chuyên môn hoá cao, nhằm để thể hiện các mặt năng lực của con người. Thể thao là một hoạt động phục vụ cho lợi ích xã hội, thực hiện chức năng giáo dục, huấn luyện và giao tiếp. Khuynh hướng tiêu biểu của nó là nhằm đạt tới những thành tích cao nhất mà con người có thể đạt tới, cho phép đảm bảo sự phát triển có tính chuyên môn hoá các năng lực, các kỹ năng, kỹ xảo vận động và tâm lý con người ở mức cao nhất. Mặt khác, diễn biến và kết cục của thể thao không biết trước được. 1.4.2. Vị trí, ý nghĩa của công tác GDTC ở trường THPT Văn kiện ĐH VIII của Đảng đã ghi rõ: "Sự cường tráng về thể chất là nhu cầu của bản thân con người, đồng thời là vốn quý để tạo ra tài sản trí tuệ và vật chất cho xã hội, chăm lo cho con người về thể chất là trách nhiệm của toàn xã hội, của các cấp, các ngành, các đoàn thể". Vì vậy, hiện nay GDTC vừa là vấn đề cơ bản vừa là vấn đề cấp 18
  19. bách mà trường học chính là nơi cung cấp những kiến thức, kinh nghiệm nhằm nâng cao sức khoẻ cho HS thông qua các môn học: Thể dục, vệ sinh, chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ (hằng ngày và trong luyện tập TDTT) đồng thời góp phần hình thành nên những phẩm chất nhân cách. Trong trường THPT, công tác GDTC càng trở nên quan trọng hơn cả vì ở lứa tuổi này thể chất của các em đang ở giai đoạn phát triển mạnh mẽ, sung mãn nhất, cần có sự tác động đúng hướng. GDTC ở nhà trường là biện pháp quan trọng để bồi dưỡng cho các em khả năng tự tập luyện lâu dài, hình thành thói quen tập luyện trong cuộc sống, làm khơi dậy lòng ham mê đối với TDTT, xem chúng như là một phương tiện để khám phá và phát triển nhân cách, nâng cao thể lực, làm cho đời sống văn hoá và tinh thần ngày càng tốt đẹp hơn, đồng thời GDTC có tác động thúc đẩy các nội dung giáo dục toàn diện khác. Cụ thể: Đối với trí dục: Cơ thể con người là một khối thống nhất, trí lực và thể lực đều do hệ thần kinh trung ương điều khiển, một cơ thể khoẻ mạnh là tiền đề vật chất giúp con người phát triển năng lực hoạt động trí óc của mình. Bộ não là cái giá đỡ vật chất của trí tuệ và tâm lý. “Hoạt động TDTT luôn thay đổi tình huống và hành động, là một loại nghỉ ngơi tích cực nên có ảnh hưởng mạnh mẽ đến việc phát triển các chức năng của vỏ não, đến tính linh hoạt của quá trình thần kinh, đến sự hoàn thiện của bộ máy phân tích, nâng cao hiệu quả của vòng phản xạ, ảnh hưỏng đến tốc độ và sự vững chắc của sự hình thành phản xạ, ảnh hưởng có điều kiện, cải thiện hoạt động của cấu tạo dưới vỏ não là nơi cung cấp năng lượng cho toàn bộ hoạt động trí tuệ" [12,41]. Với học sinh THPT, luyện tập TDTT làm cho các giác quan phát triển như mắt tinh, tai thính, cảm giác vận động nhạy bén hơn, làm phát triển những phẩm chất trí tuệ chuyên biệt như tư duy thực hành, óc quan sát, tính linh hoạt, nhạy cảm với các hoạt động nhận thức, có khả năng tưởng tượng phong phú, có khả năng phân tích, tổng hợp nhanh, khả năng khái quát hóa, trừu tượng hóa, trí nhớ tốt, có cảm giác về thời gian, không gian chính xác hơn Đồng thời GDTC giúp HS có được một sự hiểu biết khoa học nhất định về các động tác, kỹ thuật tập luyện, môi trường thiên nhiên và xã hội, cách tổ chức hợp lý chế độ sinh hoạt, học tập hợp lý. Đối với giáo dục đạo đức (đức dục): Dưới góc nhìn biện chứng có thể thấy rằng: Tư tưởng đạo đức của một con người luôn tồn tại gắn liền với một cơ thể nhất định, cho nên, nếu cơ thể phát triển bình thường, khỏe mạnh thì thần kinh tốt, tâm hồn minh mẫn, cuộc sống vui tươi. Bởi vậy tác động 19
  20. của GDTC trong nhà trường có ý nghĩa rất quan trọng đói với sự hình thành và phát triển nhân cách cho HS. Việc tập luyện TDTT giúp cho HS nhận thức sâu sắc bản chất ưu việt của công tác GDTC dưới chế độ XHCN, thấy được vị trí quan trọng của nó đối với đời sống vật chất và tinh thần của mọi người, như lời dạy của Bác Hồ: “Luyện tập thể dục, bồi bổ sức khoẻ là bổn phận của mỗi người dân yêu nước”. Việc tập thể dục và hoạt động thể thao đòi hỏi HS thể hiện hành vi đạo đức ngay trong thao tác và tinh thần thái độ tập luyện hằng ngày; phải phát huy cao độ nghị lực, tính tổ chức kỷ luật, thái độ chấp hành các quy tắc, luật định trong thi đấu; rèn luyện cho HS tính kiên trì, lòng dũng cảm, ý chí vượt qua gian khổ, tinh thần lạc quan, ý thức tập thể, tăng cường tình đoàn kết hữu nghị, đồng thời giúp cho HS có thái độ đúng đắn với môi trường, với sức khoẻ của bản thân và của mọi người. Đối với giáo dục thẩm mỹ (mỹ dục): Bản thân các động tác TDTT đã chứa đựng nhiều yếu tố nghệ thuật thẩm mỹ như sự nhịp nhàng, đều đặn, khéo léo, uyển chuyển hài hoà giữa sức mạnh cơ bắp với sức mạnh tinh thần, hay cái đẹp của hành vi dũng cảm, ý chí kiên cường vượt khó trong tập luyện, thi đấu. Thông qua các hoạt động tập luyện, thi đấu TDTT, HS có được nhận thức đúng đắn và có tình cảm đối với những hành vi, cử chỉ đẹp, lành mạnh của con người, sống có mục đích, luôn lạc quan yêu đời, tin tưởng vào cuộc sống tương lai tươi sáng, bồi dưỡng cho HS năng lực khám phá, thưởng thức và cảm nhận cái đẹp trong nghệ thuật, cái đẹp trong cuộc sống, trong lao động, trong thiên nhiên. Tập luyện TDTT thường xuyên sẽ làm tăng thêm vẻ đẹp tự nhiên của con người, làm cho cơ thể phát triển cân đối, da dẻ hồng hào, tư thế, phong thái chững chạc, đường hoàng, tác phong nhanh nhẹn, hoạt bát. Với ý nghĩa trên, GDTC có tác dụng hình thành những mẫu người đẹp về thể xác (cao to, khoẻ mạnh ), phong phú về tinh thần (nhận thức đúng đắn về thẩm mỹ, về con người mới), xây dựng cuộc sống vui tươi, lành mạnh, có ý nghĩa. Đối với lao động sản xuất: Khi đề cập đến lao động sản xuất thì người ta nghĩ ngay đến vấn đề khoa học kỹ thuật và thể lực. Các Mác đã từng chỉ ra rằng: Sức lao động hoặc năng lực lao động là tổng hợp của những năng lực thể chất và tinh thần, tồn tại trong một cơ thể, một cá thể đang sống [12,44]. GDTC có tác dụng nâng cao thể lực toàn diện, hình thành những kỹ năng kỹ xảo vận động cơ bản hoặc động tác có liên quan đến các thao tác lao động sản xuất, thích ứng nhanh chóng với các điều kiện lao động phức tạp, nặng nhọc. 20
  21. Tóm lại, GDTC luôn gắn bó hữu cơ với tất cả các mặt giáo dục và góp phần to lớn vào việc hình thành nhân cách xã hội chủ nghĩa (XHCN) cho HS. 1.4.3. Mục tiêu của công tác GDTC Mục tiêu của công tác GDTC Việt Nam xuất phát từ yêu cầu có tính quy luật của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Đất nước ta đang chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn công nghiệp hoá và hiện đại hoá, làm cho dân giàu nước mạnh, xây dựng một xã hội công bằng và văn minh. Điều 41, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 ghi nhận:" quy định chế độ GDTC bắt buộc trong trường học”. Tính chất bắt buộc này xuất phát từ ý nghĩa to lớn của GDTC trong nhà trường. Mục tiêu của GDTC trong trường THPT là nhằm góp phần đào tạo thế hệ thanh niên thành những người phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức, nâng cao trình độ TDTT, góp phần tích cực vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và giao lưu quốc tế. Mục tiêu này vừa mang tính nhân văn, vừa mang tính hiện thực. Trên cơ sở đó, mục tiêu cụ thể của môn thể dục ở trường THPT là giúp HS: Nắm được một số kiến thức, kĩ năng cơ bản để tập luyện giữ gìn sức khoẻ, nâng cao thể lực. Góp phần rèn luyện nếp sống lành mạnh, tác phong nhanh nhẹn, kĩ luật, thói quen tập luyện TDTT. Có sự phát triển về thể lực, đạt tiêu chuẩn rèn luyện thân thể và thể hiện khả năng của bản thân về TDTT. Biết vận dụng ở mức nhất định những điều đã học vào nếp sinh hoạt trong và ngoài nhà trường. 1.4.4. Nhiệm vụ của công tác GDTC GDTC trong trường THPT là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ sự nghiệp TDTT nói chung; nó được tiến hành phù hợp với đặc điểm về giải phẩu, tâm - sinh lí, giới tính của học sinh và các yêu cầu khác. Căn cứ vào nhiệm vụ chung của hệ thống GDTC, nhiệm vụ của GDTC trong trường THPT được cụ thể hoá như sau: 1.4.4.1. Nhiệm vụ bảo vệ và nâng cao sức khoẻ Thúc đẩy sự phát triển hài hoà cơ thể đang trưởng thành, tăng cường quá trình trao đổi chất, củng cố và rèn luyện hệ thần kinh vững chắc, giữ gìn và hình thành các tư thế hoạt động tốt. Phát triển một cách hợp lý các tố chất thể lực và năng lực hoạt động cơ bản; nâng 21
  22. cao khả năng làm việc về trí óc và thể lực. Trên cơ sở phát triển thể chất toàn diện, tổ chức các hoạt động vui chơi lành mạnh, nghỉ ngơi tích cực, rèn luyện và nâng cao khả năng chịu đựng và sức đề kháng của cơ thể đối với các ảnh hưỏng không thuận lợi của ngoại cảnh, phòng chống bệnh tật. Đối với HS THPT, lứa tuổi thanh niên, lứa tuổi đang lớn nhanh, nhưng mất cân đối về nhiều mặt, phát triển không đồng đều giữa nam và nữ thì cần đảm bảo sự tác động toàn diện các nhóm cơ, ưu tiên phát triển tốc độ, sức mạnh - tốc độ, sức bền với cường độ hợp lý, độ linh hoạt của các khớp, khả năng thả lỏng của cơ bắp và phối hợp vận động. Tiếp tục củng cố các tư thế đúng đắn. 1.4.4.2. Nhiệm vụ giáo dưỡng Trang bị cho HS những tri thức về TDTT, kỹ năng, kỹ xảo vận động cần thiết cho các hoạt động khác nhau của cuộc sống. Cung cấp các tri thức và rèn luyện thói quen giữ gìn vệ sinh cá nhân, vệ sinh nơi công cộng, vệ sinh tập luyện, nếp sống văn minh và lành mạnh. Phát triển hứng thú và nhu cầu rèn luyện thân thể cường tráng, hình thành thói quen tự tập luyện. Trang bị một số tri thức về mặt tổ chức và phương pháp tiến hành giờ thể dục. Đối với học sinh THPT, phát triển kỹ năng vận dụng linh hoạt các động tác trong những điều kiện khác nhau như các hoạt động trò chơi trong sinh hoạt Đoàn, Hội, nâng cao tính độc lập giải quyết các nhiệm vụ vận động. Mặt khác, có thể hướng nghiệp TDTT đối với những HS có năng khiếu. 1.4.4.3. Nhiệm vụ giáo dục Với tư cách là một mặt của giáo dục toàn diện, GDTC góp phần tích cực vào việc hình thành các thói quen đạo đức, phát triển trí tuệ, thẩm mỹ, chuẩn bị thể lực cho thanh niên đi vào cuộc sống lao động sản xuất, công tác. Nhiệm vụ giáo dục phải được thực hiện thường xuyên trong quá trình GDTC trong từng giờ thể dục ở trường THPT. Đồng thời phải gắn liền nó với các yêu cầu cụ thể và các hoạt động chung của nhà trường. 1.4.4.4. Nhiệm vụ phát triển và bồi dưỡng bước đầu nhân tài thể thao Có thể khẳng định rằng năng khiếu, nhân tài thể thao trong tương lai như những hạt giống chưa hoặc đang bắt đầu nảy mầm ở các trường phổ thông. Do đó, quá trình GDTC cho HS thông qua các môn thể dục, thể thao sẽ làm xuất hiện những HS có khả năng tham gia hoạt động này với thành tích tốt nhất, trong một thời gian ngắn. Phát hiện và bồi dưỡng học sinh có khả năng về thể dục, thể thao phải gắn liền với tổ chức các hoạt động TDTT phong phú, đa dạng và việc truyền thụ tri thức về TDTT một cách có 22
  23. hệ thống. Bồi dưỡng nhân tài TDTT được tiến hành thông qua nhiều con đường, dưới nhiều hình thức khác nhau và không tách rời sự giúp đỡ của tập thể. 1.4.5. Các hình thức tổ chức GDTC trong trường THPT 1.4.5.1. Giờ thể dục Đây là loại giờ học bắt buộc thực hiện thống nhất theo chương trình quy định của nhà nước nhằm giải quyết các nhiệm vụ trong nhà trường. Hiệu quả của GDTC không những chỉ phụ thuộc vào việc lựa chọn các phương tiện thích hợp, vận dụng các nguyên tắc và phương pháp giảng dạy khoa học, mà còn tổ chức các hình thức tập luyện sinh động hợp với đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi và hoàn cảnh cụ thể. Lên lớp là hình thức tổ chức cơ bản nhất của quá trình GDTC trong nhà trường nói chung, trong trường THPT nói riêng. 1.4.5.2. Các hình thức nghỉ ngơi tích cực Đây là hình thức tập luyện hằng ngày có tổ chức theo nhóm các cá nhân HS như thể dục buổi sáng, các trò chơi vui khoẻ. 1.4.5.3. Các hoạt động ngoại khoá Đây là các hoạt động nhằm phục vụ cho các hoạt động nội khoá do nhà trường quản lý, gồm các tổ nhóm rèn luyện ngoài giờ, đội tuyển, các hoạt động thi đấu HKPĐ các cấp, tham quan và nghe kể chuyện về TDTT Các hoạt động này cũng do nhà trường quản lý thống nhất theo kế hoạch chung. 1.4.6. Các nội dung GDTC ở trường THPT GDTC là một quá trình giáo dục nhằm nâng cao sức khoẻ cho học sinh, bao gồm: hoạt động TDTT, vệ sinh, môi trường Trong đó, hoạt động TDTT đóng vai trò chủ đạo. Trên cơ sở nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của đề tài, nội dung của hoạt động TDTT trong trường THPT, gồm: nội dung của giờ thể dục (còn gọi là giờ thể dục nội khoá) và các hoạt động TDTT ngoài giờ quy định (còn gọi là TDTT ngoại khoá). 1.4.6.1. Nội dung giờ thể dục Nội dung của giờ thể dục được biểu hiện trong sự thống nhất giữa các mặt hoạt động chủ yếu của giờ học và chúng quy định chất lượng của buổi tập đó. Các mặt hoạt động chủ yếu này liên quan chặt chẽ với nhau, bao gồm: Bài tập thể chất: Các bài tập thể chất với tư cách là phương tiện chuyên môn cơ bản nhất, chủ yếu nhất có thể giải quyết một cách độc lâp các nhiệm vụ của GDTC. Do đó, người ta thường quan niệm các bài tập thể chất được quy định trong chương trình cho từng đối tượng HS, từng buổi tập là nội dung của giờ thể dục. Tuy nhiên, hiểu như vậy chưa hoàn toàn đầy 23
  24. đủ, chưa toàn diện, vì bản thân các bài tập thể chất mới chỉ là khách thể (phương tiện) của các hoạt động thực tiễn của người dạy và người học, nhằm thực hiện nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng và sức khoẻ. Còn chất lượng của giờ thể dục trước hết phụ thuộc vào ý thức và trình độ của người sử dụng chúng, tức là phụ thuộc vào mối quan hệ giữa người dạy và người học. Các bài tập thể chất chỉ là một trong các mặt chủ yếu của nội dung mà thôi. Các hoạt động của HS nhằm thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra: Nội dung này xuất phát từ các hoạt động trí lực và thể lực của HS, bao gồm: nghe giảng, quan sát động tác mẫu, tiếp thu, suy nghĩ, thiết kế các hoạt động tiếp theo; thực hiện và kiểm tra, đánh giá hoạt động của mình; trao đổi với giáo viên về vấn đề xuất hiện trong quá trình tập luyện; theo dõi trạng thái cơ thể của mình và điều chỉnh chúng Tất cả đó là hoạt động tích cực của người học và phải được coi là mặt chủ yếu của nội dung giờ thể dục. Các hoạt động của giáo viên: Bao gồm việc giải thích mục đích, nhiệm vụ học tập, xác định yêu cầu cụ thể và tổ chức HS tập luyện, thực hiện, theo dõi các hoạt động của HS, phân tích đánh giá kết quả việc thực hiện, điều chỉnh lượng vận động, đồng thời phê phán uốn nắn một cách tế nhị các hành vi của HS, xây dựng mối quan hệ giữa HS với nhau. Hoạt động chủ đạo này của nhà sư phạm giữ vai trò tổ chức, điều khiển, định hướng, kiểm tra và kích thích sự hoạt động tích cực của HS. Các quá trình tâm - sinh lí và sự biển đổi trong cơ thể của HS: Các quá trình tâm - sinh lí và sự biến đổi trong cơ thể của HS xuất hiện đồng thời với các hoạt động của chúng. Các quá trình này tích luỹ dần và dẫn đến sự biến đổi nhảy vọt trong các hệ thống chức năng, hình thái của cơ thể, trong các tri thức, kĩ năng và kĩ xảo, trong các hành động của HS. Tất cả những cái đó là mặt tiềm tàng nội tại của nội dung giờ học. Nội dung này còn là các chỉ tiêu kiểm tra các tình huống đang diễn ra, cũng như các kết quả về giáo dục, giáo dưỡng và sức khỏe. Đồng thời chúng phục vụ cho việc định hướng các giờ học tiếp theo nhằm bảo đảm tính khoa học và hệ thống của quá trình GDTC.[12,146] 1.4.6.2. Các nội dung TDTT ngoại khoá tại nhà trường Đây là những hoạt động hằng ngày (nhằm phục vụ cho hoạt động nội khoá do nhà trường quản lý) có tổ chức theo nhóm hoặc cá nhân HS như thể dục và các trò chơi vận động, các môn thể thao Tổ nhóm rèn luyện ngoài giờ, đội tuyển, các hoạt động thi đấu HKPĐ, tham quan, 24
  25. cắm trại, nghe nói chuyện về TDTT 1.4.7. Các phương pháp giáo dục thể chất GDTC là một quá trình sư phạm, do đó các phương pháp GDTC về bản chất cũng chính là phương pháp sư phạm, nhưng mang những đặc điểm của GDTC. Ngoài việc sử dụng phương pháp giảng dạy chung như dùng lời nói, trực quan, trong GDTC còn áp dụng các phương pháp mang tính chất đặc thù riêng, tuỳ thuộc vào hệ thống các bài tập, kỹ thuật, chiến thuật, yêu cầu thể lực và trình độ thi đấu thể thao của học sinh. Có thể khái quát thành các phương pháp sau: 1.4.7.1. Phương pháp sử dụng lời nói (Phương pháp giảng giải) Là phương pháp GV dùng lời nói để giới thiệu kiến thức TDTT, phân tích về nội dung cơ bản, nhiệm vụ bài học, về phương hướng chuyển động của các bộ phận cơ thể, các mấu chốt kỹ thuật, yêu cầu của sự phối hợp từng bộ phận và toàn phần kỹ thuật, để từng bước hoàn thành kỹ thuật động tác và nâng cao hiểu biết các kiến thức có liên quan. 1.4.7.2. Phương pháp trực quan (làm mẫu) Trong GDTC, "trực quan" được hiểu theo nghĩa rộng, dựa vào tất cả các cơ quan cảm thụ để liên hệ với hiện thực khách quan (sử dụng cảm giác, tri giác khác nhau). Để đảm bảo trực quan theo nghĩa rộng đó, người ta sử dụng một tổ hợp hoàn chỉnh các phương pháp dựa trên các bài tập hoặc các mặt riêng lẻ, các đặc tính, các điều kiện thực hiện Trong quá trình hướng dẫn tập luyện, người dạy có thể kết hợp sử dụng các hình thức làm mẫu, các giáo cụ trực quan, các mô hình, sa bàn Việc kết hợp lời giảng ngắn gọn, dễ hiểu với các động tác minh họa chính xác, đúng, đẹp và phù hợp với đặc điểm tâm - sinh lý của HS, sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. 1.4.7.3. Phương pháp giảng dạy hoàn chỉnh và phân đoạn a) Phương pháp giảng dạy động tác hoàn chỉnh: Được sử dụng đối với những bài tập có động tác đơn giản hoặc khó phân chia thành các cử động nhỏ. Với HS, khả năng phân tích động tác kỹ thuật còn hạn chế, sự kết hợp các động tác riêng lẻ còn khó khăn, lúng túng nên khi sử dụng phương pháp giảng dạy động tác hoàn chỉnh GV chú ý nhấn mạnh vào các điểm chủ yếu, cần thiết của kỹ thuật. b) Phương pháp giảng dạy động tác phân đoạn: Khi giảng dạy những động tác, bài tập khó và phức tạp, GV thường sử dụng phương pháp phân đoạn. Đây là phương pháp phân chia kỹ thuật động tác ra thành các phần kỹ thuật động tác riêng lẻ, để hướng dẫn HS tập từng phần kỹ thuật. Khi từng phần kỹ thuật được HS thực hiện thuần thục, thì liên kết các phần đó thành động tác hoàn 25
  26. chỉnh. Phương pháp dạy động tác hoàn chỉnh và phân đoạn cần phải có sự phối hợp một cách hợp lý, để giải quyết các nhiệm vụ giáo dục cụ thể của từng bài học và nội dung tập luyện, mang lại hiệu quả tốt hơn. 1.4.7.4. Phương pháp tập luyện (Phương pháp thực hành) Trong quá trình giảng dạy thể dục ở trường THPT, việc sử dụng phương pháp thực hành chính là dùng các hình thức tập luyện, tạo nên sự tác động trực tiếp đến cơ thể HS. Thông qua quá trình tập luyện, HS hình thành tri thức, hoàn thiện được kỹ năng vận động và phát triển năng lực thể chất toàn diện. Trong giảng dạy môn thể dục, phương pháp này được sử dụng dưới những cách thức sau: a) Tập luyện lặp lại: Đây là phương pháp tập luyện với kỹ thuật, động tác được lặp lại nhiều lần. Hình thức tập luyện này có ưu điểm là kỹ thuật động tác sớm hình thành, tạo nên việc thực hiện đúng và chính xác. Trong hoạt động TDTT, nếu vận dụng thường xuyên việc tập luyện lặp lại sẽ có tác dụng tốt đến việc hình thành thói quen vận động và các kỹ năng hoạt động như: đi, chạy, nhảy, leo trèo, ném b) Tập luyện biến đổi: Trong quá trình tập luyện, các động tác TDTT luôn có sự điều chỉnh, thay đổi các yêu cầu, mức độ, mục tiêu và các điều kiện, sử dụng phương pháp tập luyện có biến đổi nhằm tạo cho HS khả năng làm quen, nhanh chóng thích ứng giải quyết các điểm mấu chốt, quan trọng của kỹ thuật. Khi giảng dạy các động tác phức tạp cần chia động tác thành các phần chi tiết khác nhau (theo nguyên tắc từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp). Sau cùng hướng dẫn HS biết phối hợp các phần riêng lẻ thành động tác hoàn chỉnh ở trong các điều kiện không giống nhau, tăng dần mức độ khó khăn, phức tạp, song phải đảm bảo tính vừa sức. c) Tổ chức trò chơi: Phương pháp trò chơi không nhất thiết phải gắn với một trò chơi cụ thể nào như: Bóng đá, đá cầu, hoặc các trò chơi vận động đơn giản. Về nguyên tắc, phương pháp trò chơi có thể được sử dụng trên cơ sở của bất kỳ bài tập thể chất nào của giờ thể dục. Tuy nhiên cần tổ chức sao cho phù hợp với đặc điểm của nó, đó là: Tổ chức theo chủ đề, mỗi trò chơi cần đạt được mục đích nhất định hoặc theo nhu cầu của GDTC. Trò chơi phải phong phú về phương thức, đạt được mục đích và tính tổng hợp của hoạt động, có nghĩa là gồm nhiều hoạt động vận động khác nhau như: chạy, nhảy, ném 26
  27. Phương pháp trò chơi đòi hỏi người tham gia phải có tính tự lập, sáng kiến, nhanh trí, khéo léo và phải tạo ra quan hệ giữa các cá nhân và giữa các nhóm người diễn ra tích cực, vừa hợp tác, tranh đua. d) Thi đấu: Trong GDTC, phương pháp thi đấu được sử dụng để giải quyết nhiều nhiệm vụ sư phạm khác nhau như: giáo dục các tố chất vận động và năng lực sử dụng hợp lý chúng. Trong những hoàn cảnh phức tạp, phương pháp thi đấu có yêu cầu cao nhất đối với khả năng của con người, do vậy, thúc đẩy cơ thể phát triển mạnh mẽ nhất. Thi đấu có ý nghĩa trong giáo dục các phẩm chất đạo đức, ý chí như tính mục đích, sáng kiến, sự cương quyết, kiên trì, tự trọng, dũng cảm, tinh thần vượt khó Tuy nhiên do yếu tố tranh đua trong thi đấu nên cũng có thể hình thành nên những hiện tượng tiêu cực như tính ích kỷ, hiếu thắng Do đó, thi đấu chỉ phát huy tác dụng trong giáo dục đạo đức khi có sự hướng dẫn sư phạm ở trình độ cao và đúng đắn [23,176]. 1.4.7.5. Phương pháp sửa chữa động tác sai Trong quá trình tập luyện TDTT, HS không tránh khỏi sai sót về tư thế, kỹ thuật, các chi tiết riêng lẻ, ý thức nên việc áp dụng phương pháp sửa chữa động tác, kỹ thuật sai là rất cần thiết, giúp HS thực hiện đúng, chính xác kỹ thuật, tạo điều kiện tiếp thu bài mới nhanh và phòng tránh chấn thương. Khi áp dụng phương pháp sửa chữa động tác sai cần có hình thức phong phú, có thể sử dụng các dụng cụ tập luyện, tiếng hô, tiếng vỗ tay, nhịp gõ để nhắc nhở các em thời điểm chủ yếu cần thay đổi, giữ vững kỹ thuật động tác, giúp HS nhớ và nắm vững thời điểm khi dùng sức, xây dựng cảm giác đúng, chính xác, hoàn thành kỹ thuật, bài tập. Hệ thống các phương pháp trong giảng dạy TDTT nói chung rất đa dạng và phong phú, xuất phát từ mục tiêu giáo dục và tuỳ thuộc vào thực trạng cơ sở vật chất của nhà trường, dụng cụ thiết bị tập luyện, trình độ vận động của HS, các điều kiện thời tiết, môi trường để vận dụng các phương pháp phù hợp, đem lại hiệu quả giáo dục cao. 1.5. Chất lượng công tác GDTC và vai trò quản lý của HT trong việc nâng cao chất lượng công tác GDTC ở trường THPT 1.5.1. Chất lượng công tác GDTC và các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng công tác GDTC "Chất lượng là cải tạo nên phẩm chất giá trị của một con người, một sự vật, sự việc" [19,155] Chất lượng GDTC được hiểu là chất lượng của sản phẩm được đào tạo thông qua các hoạt động GDTC, được thể hiện ở mức độ đáp ứng mục tiêu của công tác GDTC, mà 27
  28. đối tượng của GDTC trong nhà trường là HS. Theo quan điểm tiếp cận, có thể hiểu chất lượng GDTC là kết quả công tác GDTC đem lại cho HS về các mặt: HS phát triển hài hòa cơ thể, hình thành những tư thế đúng đắn. HS có được những tri thức về TDTT, kỹ năng, kỹ xảo vận động cần thiết. Hình thành được cho HS những thói quen đạo đức tốt trong học tập, rèn luyện thân thể. Phát hiện, bồi dưỡng HS có năng khiếu thể thao, tham gia thi đấu đạt kết quả cao. Xây dựng tập thể đoàn kết, tích cực, tự giác tập luyện, tạo cho HS có cuộc sống vui tươi lành mạnh. Kết quả của GDTC phụ thuộc chủ yếu vào: ý thức, động cơ học tập rèn luyện của HS; kỹ cương nề nếp, nội dung, phương pháp, tổ chức, quản lý, chỉ đạo, tăng cường công tác kiểm tra, xây dựng đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, môi trường tập luyện Bởi vậy muốn nâng cao chất lượng GDTC ở trường THPT cần phải hiểu được các nhân tố ảnh hưỏng đến GDTC để có tác động đồng bộ, nâng cao khả năng điều khiển quá trình sư phạm đúng với mục đích và nhiệm vụ đề ra. Chất lượng của GDTC trong trường THPT phụ thuộc vào một số yếu tố chủ yếu sau: Ảnh hưởng của động cơ, ý thức học tập, rèn luyện của HS đến chất lượng công tác GDTC Hoạt động - đó là sự đáp lại của cá thể đối với một tình huống hiện thực xác định. Hoạt động được thúc đẩy bởi một động cơ nhất định. Hoạt động học tập, tập luyện trong GDTC cũng vậy, gắn liền với động cơ học tập của HS nhằm hoàn thiện các tri thức về TDTT, các kỹ năng vận động, phát triển thể chất, có cuộc sống vui tươi lành mạnh. Động cơ học tập không có sẵn mà được hình thành dần dần trong quá trình học tập dưới sự tổ chức điều khiển của GV. Nếu trong giờ học thể dục, GV hướng dẫn cho HS kỹ thuật động tác, phát huy năng lực tập luyện, hình thành những kỹ năng vận động, tạo ra được những ấn tượng tốt đẹp với giờ thể dục thì dần dần nảy sinh nhu cầu học tập, rèn luyện TDTT ở HS, hình thành cho HS thói quen tập luyện thường xuyên, tích cực, tự giác tham gia các hoạt động tập thể, thi đấu thể thao Ảnh hưởng của nội dung GDTC Nội dung dạy học là đối tượng lĩnh hội của HS trong quá trình học tập, bao gồm: hệ thống tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo và các chuẩn mực thái độ được xác định trong sách giáo khoa, tài liệu tham khảo và trong các nguồn 28
  29. thông tin khác. Nội dung dạy học quy định nội dung học tập của HS. Chất lượng GDTC trong nhà trường thể hiện ở mức độ chiếm lĩnh các nội dung giờ học thể dục, hình thành ở HS những năng lực vận động cơ bản, phát triển các tố chất về sức mạnh, sức nhanh, sức bền, khả năng khéo léo, tham gia các hoạt động trò chơi, thi đấu Điều đó sẽ có kết quả cao, nếu nội dung giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của HS, đặc biệt là đặc điểm nhận thức. HS sẽ tham gia học tập hứng thú, tích cực hơn khi các em cảm nhận được những điều cần học phù hợp với trình độ, khả năng của mình. Ảnh hưởng của phương pháp và hình thức GDTC Các bài tập thể chất là phương tiện chủ yếu nhất để giải quyết nhiệm vụ của GDTC trong nhà trường, với điều kiện là chúng phải được sử dụng một cách khoa học, theo nhiều phương pháp và các hình thức tổ chức nhất định, phù hợp với đặc điểm đối tượng như lứa tuổi, giới tính, trình độ tập luyện Do tính chất riêng của phương pháp giảng dạy TDTT, khi GV sử dụng phương pháp phù hợp với đặc điểm hệ thống các bài tập, kỹ thuật, chiến thuật, yêu cầu thể lực và hướng dẫn tổ chức cho HS học tập một cách tích cực, độc lập, sáng tạo sẽ là điều kiện tốt để cho HS tự tiếp cận, lĩnh hội tri thức mới, có điều kiện phát triển khả năng của mình thì hiệu quả của GDTC sẽ được nâng cao. Ảnh hưởng của phương pháp học tập, tập luyện của HS đến chất lượng GDTC Chất lượng học tập, rèn luyện của HS cao hay không phụ thuộc chủ yếu và trực tiếp vào chính bản thân người HS, trong đó phương pháp học tập đóng vai trò quyết định nhất, bên cạnh đó việc xây dựng cho mình thói quen tập luyện thường xuyên cũng có ảnh hưởng quan trọng. Ảnh hưởng của yếu tố vệ sinh và môi trường Trong quá trình GDTC, vệ sinh và môi trường cũng là yếu tố quan trọng. Các yếu tố thiên nhiên môi trường như ánh nắng mặt trời, không khí, nước sẽ ảnh hưởng đến việc lựa chọn và sử dụng, phối hợp các bài tập thể lực (tập dưới ánh nắng mặt trời, có không khí trong lành ) do đó làm tăng thêm tác dụng của các bài tập thể lực đối với sức khoẻ. Các yếu tố thiên nhiên còn được sử dụng như những biện pháp chuyên môn để rèn luyện thân thể, tăng cường sức khoẻ như: tắm nắng, ngâm mình hoặc tắm bằng nước nóng Các nhân tố thiên nhiên, môi trường nước, nắng, mưa, gió, độ ẩm, áp suất tuy chúng ta chưa điều khiển được chúng, nhưng nếu hiểu được quy luật tác động của chúng đến cơ thể người tập thì ta có thể tìm cách sử dụng hợp lý trong quá trình luyện tập nhằm 29
  30. mục đích giữ gìn và nâng cao sức khoẻ. Các yếu tố vệ sinh bao gồm việc bảo đảm về mặt vệ sinh khi luyện tập thể lực, chế độ học tập, lao động, nghỉ ngơi, giải trí, ăn uống, ngủ hợp lý. Khi xây dựng trường, lớp, trang thiết bị phòng học phải chú ý đến các yêu cầu vệ sinh về dung tích không khí, ánh sáng, độ ẩm của phòng học, phòng tập, đó là yếu tố tác động thuận lợi cho việc phát triển thể chất. Ảnh hưởng của nhân tố cơ sở vật chất Trong quá trình GDTC, việc đáp ứng cơ sở vật chất có ý nghĩa quan trọng đến chất lượng, bởi lẽ đây là một hình thức giáo dục không chỉ thuần tuý về lý thuyết mà việc thực hành, thực tập, thi đấu chiếm một vị trí quan trọng đến chất lượng GDTC. Khi có nội dung phù hợp, phương pháp đúng đắn, nhưng không có sân chơi, bãi tập để hướng dẫn thực hành động tác thì hiệu quả của quá trình giáo dục đó hết sức hạn chế, thậm chí còn có tác dụng ngược lại. Ở lứa tuổi HS THPT, ngoài việc học tập lý thuyết, HS rất ham thích hoạt động trò chơi, thi đấu. Do vậy, sân bãi, dụng cụ tập luyện thi đấu là điều kiện để nâng cao chất lượng GDTC. 1.5.2. Vai trò quản lý của Hiệu trưởng trong việc nâng cao chất lượng GDTC ở trường THPT Quản lý GDTC trong nhà trường THPT chính là quản lý một quá trình giáo dục mang tính bộ phận trong quá trình sư phạm tổng thể của nhà trường, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo con người toàn diện. Vì vậy quản lý GDTC được hiểu là thực hiện chức năng quản lý, nhằm tác động đến đối tượng quản lý, để trước hết đạt được những mục tiêu cụ thể đề ra cho công tác GDTC trong trường THPT, góp phần thực hiện mục tiêu đào tạo. Nâng cao chất lượng giáo dục là một nội dung quản lý rất quan trọng của HT. Chất lượng GDTC là một yếu tố cấu thành chất lượng giáo dục, vì thế nó cũng là một nội dung quản lý của HT. Nâng cao chất lượng GDTC ở trường THPT đòi hỏi người HT phải có năng lực xây dựng kế hoạch tổng thể phát triển chất lượng, trên cơ sở đó chỉ đạo tổ chuyên môn xây dựng kế hoạch khả thi thực hiện mục tiêu nâng cao chất lượng GDTC. Để đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng, HT cần huy động tổng hợp nhiều nguồn lực: nhân lực, vật lực, tài lực, trong đó HT và nguồn nhân lực đóng vai trò quan trọng quyết định chất lượng môn học. HT phải có trách nhiệm chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra GV và HS thực hiện tốt đường lối chính sách giáo dục của Đảng, các hoạt động giáo dục, giảng dạy và học tập rèn luyện, xây dựng sự đoàn kết thống nhất, phát huy vai trò làm chủ của GV và HS để thực 30
  31. hiện tốt các nhiệm vụ trong nhà trường; các hoạt động trong nhà trường phải được kế hoạch hoá và tổ chức thực hiện có hiệu quả, phù hợp với đặc điểm của nhà trường và quan điểm giáo dục cho HS phát triển toàn diện: Đức, Trí, Thể, Mỹ, Lao động. Là một nội dung của giáo dục toàn diện cho HS, GDTC có một vị trí nhất định trong quá trình đào tạo và ảnh hưởng, chi phối đến các nội dung giáo dục khác. Với ý nghĩa quan trọng như vậy, việc tổ chức quản lí, chỉ đạo, kiểm tra các hoạt động GDTC của HT có ảnh hưởng quan trọng đến việc thúc đẩy chất lượng của GDTC. Theo chỉ đạo của Bộ GD-ĐT, mỗi trường đều thành lập một hội đồng thể dục - sức khoẻ, trong đó, các thành viên là: đại diện Ban giám hiệu (BGH), các GV thể dục, các GV chủ nhiệm, cán bộ Đoàn, cán bộ y tế học đường, đại diện cha mẹ HS. Với tư cách là người lãnh đạo trực tiếp, HT phân công trách nhiệm cho mỗi thành viên để giúp cho HT lập kế hoạch, tổ chức điều hành và giám sát toàn bộ công tác thể dục - sức khoẻ trong nhà trường. Các GV thể dục giữ vai trò tham mưu và là lực lượng nòng cốt trong hoạt động của hội đồng, nhằm thực hiện một cách có hiệu quả mục tiêu và nhiệm vụ của GDTC. Thông qua các chức năng quản lý, người HT xây dựng kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra chương trình nội khoá và cả những hoạt động ngoại khoá, phù hợp với nhiệm vụ GDTC và điều kiện của nhà trường, nhằm hạn chế những yếu tố ảnh hưởng không thuận lợi đối với công tác GDTC; nâng cao nhận thức về công tác GDTC cho GV và HS, phát huy tính tích cực tự giác trong học tập và các mặt hoạt động; xây dựng đội ngũ GV TDTT; tăng cường cơ sở vật chất ; đặc biệt, phải tổ chức chỉ đạo, phát huy vai trò hoạt động của hội đồng thể dục - sức khoẻ trong nhà trường. Tiểu kết chương 1 Quản lý công tác GDTC ở trường THPT là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản lý giáo dục trong nhà trường nói chung, được xây dựng trên một nền tảng lý luận vững chắc. Chương 1 đã đề cập đến một hệ thống các khái niệm liên quan như: quản lý, quản lý giáo dục, quản lý nhà trường; giáo dục thể chất và quản lý giáo dục thể chất Đó là cơ sở lý luận để soi chiếu các hoạt động thực tiễn trong công tác quản lý của người HT đối với giáo dục nói chung, giáo dục thể chất nói riêng. Để nâng cao chất lượng công tác giáo dục thể chất trong các trường THPT, các HT không thể không quan tâm đến những vấn đề lý luận quan trọng, cơ bản đó. 31
  32. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG QUẢN LÝ CÔNG TÁC GIÁO DỤC THỂ CHẤT CỦA HIỆU TRƯỞNG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN PHONG ĐIỀN, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ 2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và GD-ĐT của huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế 2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên của huyện Phong Điền Phong Điền là huyện nằm ở cửa ngõ phía bắc tỉnh Thừa Thiên Huế, diện tích 953,751 km2, gần bằng 1/5 diện tích tự nhiên của Tỉnh. Phía bắc giáp huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị. Phía tây, tây nam và phía nam giáp hai huyện Đakrông và A Lưới. Phía đông và đông nam giáp hai huyện Quảng Điền và Hương Trà. Phía đông bắc giáp biển Đông với đường bờ thẳng tắp theo hướng tây bắc - đông nam trên chiều dài gần 16km. Địa bàn Phong Điền trải rộng theo hướng tây nam - đông bắc từ Trường Sơn ra tận biển Đông với chiều dài gần 46km, hình thành một vùng đất, có đầy đủ cả núi đồi, đồng bằng và vùng ven biển. Núi đồi chiếm gần 70% diện tích tự nhiên của huyện, tạo thành một bề mặt dốc nghiêng, thoải dần từ tây sang đông. Núi cao trung bình chỉ chiếm một diện tích nhỏ phía cực tây (từ 750 đến 1.666m), còn đại bộ phận là núi thấp trải dần ra phía đông (cao từ 100 đến 750m trên mực nước biển). Địa hình đồi có độ cao từ 10 đến 100m, phân bố từ rìa núi thấp phía tây đến Quốc lộ 1A (theo chiều tây - đông), và từ ranh giới Quảng Trị đến sông Bồ (theo chiều bắc - nam). 32
  33. Đồng bằng Phong Điền đại bộ phận phân bố ở vùng phía đông Quốc lộ 1A, phía tây chỉ chiếm một phần nhỏ. Căn cứ vào nguồn gốc hình thành được phân làm hai loại: đồng bằng thềm biển (thường gọi là vùng cát nội đồng) do quá trình bồi tụ cát biển, và đồng bằng phù sa do quá trình bồi tụ phù sa từ sông ngòi. Đồng bằng thềm biển chiếm phần lớn diện tích lãnh thổ phía đông, chạy từ bắc vào nam dài khoảng 18-19km, từ tây sang đông rộng khoảng 5-6 km, chiếm diện tích 10.470 ha, cao trên mực nước biển từ 8 - 10m. Đồng bằng phù sa phân bố dọc hai bờ sông Ô Lâu ở phía bắc, đông bắc huyện và các nhánh sông Bồ ở phía nam huyện. Vùng ven biển của Phong Điền là vùng bờ biển cát chạy theo hướng tây bắc - đông nam, từ làng Trung Đồng (giáp ranh Quảng Trị) đến hai xã Điền Hải và Phong Hải của huyện (giáp ranh Quảng Điền) dài gần 16km, cao độ 28-30m, rộng từ 3.000 đến 5.000m ở phía bắc và thu hẹp dần về phía nam. Do gió biển, vùng này thường xuyên hình thành những cồn cát di động hướng về phía làng mạc đầm phá ở phía tây. 2.1.2. Khái quát điều kiện kinh tế xã hội của huyện Phong Điền Được sự chỉ đạo trực tiếp, kịp thời của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và sự hỗ trợ của các sở, ban ngành, đoàn thể cấp tỉnh cùng sự nỗ lực của các tầng lớp nhân dân, huyện Phong Điền đã tạo nên những chuyển biến mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội và giáo dục. Hệ thống giao thông thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế với các huyện trong tỉnh cũng như các tỉnh khu vực miền Trung và cả nước; lực lượng lao động dồi dào. Tốc độ tăng giá trị sản xuất bình quân 16,21%/năm, tỷ trọng nông nghiệp chiếm 40%, khu vực phi nông nghiệp 60%. Công tác xóa đói giảm nghèo có chuyển biến tích cực, đến nay toàn huyện đã cơ bản xoá hết hộ đói, số hộ nghèo chỉ còn 5,3%. 100% trạm y tế có bác sỹ tại chỗ và đạt chuẩn quốc gia về y tế. Mặc dù sự phát triển kinh tế - xã hội ngày càng chuyển biến tích cực nhưng so với tiềm năng của huyện vẫn chưa tương xứng, chưa đồng đều và vững chắc. Do vậy, đã ảnh hưởng phần nào đến sự phát triển chung của sự nghiệp Giáo dục và Đào tạo huyện. Về giáo dục và đào tạo, huyện đã tích cực triển khai Nghị quyết 29-NQ/TW về đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh việc sắp xếp mạng lưới trường lớp và đội ngũ giáo viên. Tập trung thực hiện phổ cập giáo dục các bậc học; kết quả 16/16 xã, thị trấn đạt phổ cập tiểu học và THCS. Về giáo dục mầm non, đến nay có 16/16 xã, thị trấn đạt chuẩn quốc gia phổ cập giáo dục mầm non trẻ 5 tuổi. Đến nay có 44,6% số trường đạt chuẩn quốc gia. Kết thúc năm học 2013 – 2014, toàn huyện có 22.382 học sinh, trong đó ngành học mầm non có 4.751 cháu, tiểu học có 7.483 học sinh, Trung học cơ sở có 6.135 học 33
  34. sinh và THPT có 3875 học sinh. Về số lượng, tỷ lệ huy động ngành học mầm non đạt 59,6% (trong đó 27,8% cháu vào nhà trẻ, 89,2% vào mẫu giáo, 99,6% cháu 5 tuổi vào lớp 1), tiểu học đạt 99,52%, THCS đạt 96,17%. Về chất lượng, 100% học sinh tiểu học và 99,9% Học sinh THCS được xét công nhận tốt nghiệp; 99,66% học sinh THPT đỗ tốt nghiệp. Tổ chức tập huấn kiểm định chất lượng cho cán bộ quản lý các trường. Đã thực hiện rà soát đội ngũ giảng dạy ở 85 trường học các cấp để có kế hoạch điều chỉnh hợp lý đội ngũ cán bộ giảng dạy trong toàn huyện năm học 2014-2015 và đến năm 2020. Nhìn chung, từ năm 2010 đến nay, huyện Phong Điền đã có những bước phát triển về kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt kế hoạch; chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm; kết quả giảm nghèo chưa vững chắc; tiến độ xây dựng nông thôn mới chưa đạt yêu cầu; tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn; giải quyết thủ tục hành chính ở một số khâu, lĩnh vực chưa kịp thời, chỉ số năng lực cạnh tranh và quản trị hành chính công sụt giảm; đời sống của một bộ phận nhân dân vẫn còn khó khăn; tình trạng khai thác lâm sản, khoáng sản, xây dựng trái phép chưa được ngăn chặn triệt để; an ninh - chính trị còn tiềm ẩn nhân tố gây mất ổn định, trật tự an toàn xã hội có lúc, có nơi còn diễn biến phức tạp [4, tr.4]. 2.1.3. Khái quát về thực trạng phát triển GD&ĐT huyện Phong Điền Toàn huyện Phong Điền có 85 cơ sở giáo dục, đào tạo, gồm: 19 trường mầm non, 27 trường tiểu học, 15 trường trung học cơ sở, 4 trường trung học phổ thông, 1 trung tâm giáo dục thường xuyên, 2 trung tâm kỹ thuật tổng hợp hướng nghiệp, 1 trung tâm dạy nghề, 16 trung tâm học tập cộng đồng. Đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý đa số đều có phẩm chất đạo đức tốt, đạt chuẩn trình độ chuyên môn, yêu nghề, yêu trẻ, tận tụy với công việc. Chất lượng dạy học ngày càng được nâng cao. Đến đầu năm học 2013 – 2014 tổng số nhân lực ngành Giáo dục huyện Phong Điền là 2235, trong đó: CBQL: 150 (MG: 42, TH: 55, THCS: 32, THPT: 12, PGD: 9). Giáo viên: 1712 (Mầm non: 343, TH: 566, THCS: 537, THPT: 266). Nhân viên: 373 (Mầm non: 143, TH: 110, THCS: 91, THPT: 29). Về chất lượng đào tạo: Bảng 2.1: Xếp loại hạnh kiểm của HS qua các năm học Hạnh kiểm Tổng số Năm học Tốt Khá TB Yếu HS SL TL SL TL SL TL SL TL 2011-2012 4012 2508 62.51 1029 25.65 408 10.17 67 1.67 2012 -2013 4136 2801 67.72 861 20.82 413 9.99 61 1.47 2013- 2014 3875 2743 70.79 695 17.94 387 9.99 50 1.29 34
  35. (Nguồn: Báo cáo thống kê của 4 trường THPT) Xếp loại hạnh kiểm của HS theo bảng 2.1 cho thấy: HS xếp hạnh kiểm tốt tăng dần từ năm học 2011-2012 đến năm học 2013-2014, tương ứng với mức khá, trung bình và yếu giảm dần. Bảng 2.2: Xếp loại học lực của HS qua các năm học Học lực Năm học Giỏi Khá TB Yếu Kém SL % SL % SL % SL % SL % 2010-2011 253 6.31 1241 30.93 2131 53.12 317 7.90 70 1.74 2011-2012 267 6.46 1326 32.06 2178 52.66 301 7.278 64 1.55 2012-2013 278 7.17 1358 35.05 1986 51.25 201 5.188 52 1.34 (Nguồn: Báo cáo thống kê của 4 trường THPT) Về xếp loại học lực, tỷ lệ HS giỏi tăng dần qua các năm từ 6,31% năm học 2011- 2012 lên 7.17% năm học 2013-2014. Số HS kém cũng giảm dần qua các năm từ 1,74% còn 1,34%. Bảng 2.3: Tỷ lệ HS đậu tốt nghiệp và trúng tuyển đại học, cao đẳng Năm học Năm học Năm học TT Các chỉ tiêu 2011-2012 2012-2013 2013-2014 1 Tốt nghiệp THPT 98.13% 98.86% 99,66% 2 Trúng tuyển ĐH, 46.27% 49.54% 59.43% CĐ (Nguồn: Báo cáo của Phòng KT&KĐCL - Sở GD&ĐT Thừa Thiên Huế) Tỉ lệ HS đậu tốt nghiệp phổ thông của HS huyện Phong Điền rất cao, trung bình 98,88%. Bên cạnh đó, tỉ lệ HS trúng tuyển vào các trường đại học, cao đẳng trong cả nước tăng lên qua các năm. Đây là những thành tựu rất đáng khích lệ của ngành GD&ĐT huyện Phong Điền. Trong những năm qua, mạng lưới các trường THPT trên địa bàn huyện Phong Điền đã dần hoàn thiện, đáp ứng đủ nhu cầu học tập của người dân địa phương. Đã có 01 trường THPT đạt chuẩn quốc gia. Chất lượng đào tạo HS THPT ngày càng nâng cao. Về số lượng giáo viên: Bảng 2.4: Tổng hợp giáo viên – học sinh 4 trường Số học STT Năm học BGH GV NV Số lớp Tỉ lệ GV/lớp sinh 1 2011-2012 12 247 27 4012 116 2.13 2 2012 -2013 12 260 29 4136 113 2.30 3 2013- 2014 12 266 29 3875 112 2.38 (Nguồn: Báo cáo thống kê của 4 trường THPT) 35
  36. Số lượng giáo viên của 4 trường THPT cơ bản đủ, đáp ứng được công tác giảng dạy của nhà trường. Số lượng học sinh trên lớp hàng năm khoảng 35 HS/lớp. Thông thường với số lượng học sinh trên lớp như vậy là điều kiện thuận lợi cho đội ngũ giáo viên trong công tác giáo dục và đáp ứng yêu cầu xây dựng trường chuẩn quốc gia. Song trong thực tế, kết quả phỏng vấn cho thấy mặc dù mỗi lớp tỷ lệ khoảng 35 HS/lớp nhưng số học sinh yếu chiếm tỷ lệ nhiều, nhiều học sinh hổng kiến thức, mất kiến thức cơ bản nên dù số học sinh không đông nhưng trong quá trình giảng dạy giáo viên vẫn rất vất vả. Để đạt yêu cầu chất lượng đối với những trường mà trình độ học sinh đầu vào quá thấp tỉ lệ giáo viên/lớp áp dụng theo định mức thông thường có thể là chưa phù hợp. Về cơ cấu GV: Cơ cấu tuổi: Bảng 2.5: Tổng hợp về tuổi đời của ĐNGV tính đến năm học 2013 – 2014 Đội ngũ Cán bộ, giáo viên STT Môn Số Dưới 30 Từ 30 – 40 Từ 41 – 50 Từ 51 – 60 người tuổi tuổi tuổi tuổi SL % SL % SL % SL % 1 Ngữ văn 41 19 46.3 11 26.8 8 19.5 3 7.3 2 Lịch sử 15 8 53.3 3 20.0 3 20.0 1 6.7 3 Địa lý 15 9 60.0 2 13.3 2 13.3 2 13.3 4 GDCD 8 4 50.0 1 12.5 3 37.5 0 0.0 5 Ngoại ngữ 40 25 62.5 12 30.0 2 5.0 1 2.5 6 Toán 42 21 50.0 9 21.4 8 19.0 4 9.5 7 Tin học 12 6 50.0 5 41.7 1 8.3 0 0.0 8 Vật lý 24 9 37.5 10 41.7 4 16.7 1 4.2 9 Hóa học 24 8 33.3 10 41.7 4 16.7 2 8.3 10 Sinh học 16 6 37.5 8 50.0 1 6.3 1 6.3 11 Công nghệ 8 4 50.0 3 37.5 1 12.5 0 0.0 12 Thể dục 13 7 53.8 5 38.5 1 7.7 0 0.0 13 GDQP 8 6 75.0 1 12.5 1 12.5 0 0.0 Tổng 266 132 49.6 80 30.1 39 14.7 15 5.6 (Nguồn: Báo cáo thống kê của 4 trường THPT) Biểu đồ 2.1: Tổng hợp về tuổi đời của ĐNGV tính đến năm học 2013 – 2014 36
  37. 50 40 30 Dưới 30 tuổi 30-40 tuổi 20 40-50 tuổi 10 50-60 tuổi 0 Dưới 30 tuổi 30-40 tuổi 40-50 tuổi 50-60 tuổi Biểu đồ tổng hợp về tuổi đời của đội ngũ giáo viên cho ta thấy lực lượng giáo viên của 4 trường là rất trẻ. Đội ngũ giáo viên có tuổi đời dưới 30 tuổi chiếm 49,6%, từ 30 đến 40 tuổi 30,1%. Trong khi đó, tuổi đời từ 40 đến 60 tuổi chỉ chiếm 20,3%. Phân tích độ tuổi các bộ môn cho thấy giáo viên có tuổi đời dưới 30 tuổi chiếm từ 50% trở lên là các bộ môn: Lịch sử, Địa Lý, GDCD, Tiếng Anh, Toán, Tin học, Công Nghệ, Thể dục. Lực lượng giáo viên trẻ có thuận lợi là: năng động, sáng tạo, ham học hỏi, dễ tiếp thu, thích ứng với những cái mới, ứng dụng công nghệ thông tin và trang thiết bị dạy học hiện đại tốt. Tuy nhiên, đội ngũ giáo viên trẻ cũng gặp không ít khó khăn: kinh nghiệm giảng dạy, giáo dục còn hạn chế, năng lực bồi dưỡng học sinh yếu, học sinh giỏi, học sinh thi tốt nghiệp và thi Đại học, Cao đẳng còn chưa cao. Đặc biệt đối với những trường vùng ven, vùng xa nơi có số lượng học sinh có học lực yếu, học sinh có hoàn cảnh khó khăn đông, đội ngũ giáo viên trẻ càng cần phải cố gắng. Với những thuận lợi và khó khăn của đội ngũ giáo viên trẻ, Hiệu trưởng các trường vùng xa cần quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện để đội ngũ được giao lưu học hỏi kinh nghiệm với các thế hệ đồng nghiệp đi trước có nhiều kinh nghiệm ở các trường có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy. Đồng thời tạo điều kiện để họ tiếp tục được đào tạo, bồi dưỡng nhằm không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ phục vụ cho công tác giáo dục, đào tạo tại địa bàn vùng xa có đa số học sinh là con em nông dân và là địa bàn còn gặp nhiều khó khăn. Cơ cấu giới tính: Bảng 2.6: Tổng hợp về cơ cấu giới tính của ĐNGV tính đến năm học 2013 – 2014 Đội ngũ giáo viên STT Đơn vị Số lượng Nam % Nữ % 1 Ngữ văn 41 6 14.6 35 85.4 2 Lịch sử 15 4 26.7 11 73.3 3 Địa lý 15 4 26.7 11 73.3 37
  38. 4 GDCD 8 3 37.5 5 62.5 5 Ngoại ngữ 40 8 20.0 32 80.0 6 Toán 42 26 61.9 16 38.1 7 Tin học 12 5 41.7 7 58.3 8 Vật lý 24 13 54.2 11 45.8 9 Hóa học 24 8 33.3 16 66.7 10 Sinh học 16 7 43.8 9 56.3 11 Công nghệ 8 3 37.5 5 62.5 12 Thể dục 17 16 94.11 1 5.88 13 GDQP 8 8 100.0 0 0.0 Tổng 270 111 41.11 159 58.88 (Nguồn: Báo cáo thống kê của 4 trường THPT) Trong bảng thống kê có 59.8% đội ngũ giáo viên là nữ, trong đó tỷ lệ nữ trong độ tuổi sinh sản chiếm tỷ lệ cao. Có nhiều bộ môn nữ chiếm tỷ lệ trên 70% thuộc các môn: Tiếng Anh, Ngữ Văn, Lịch Sử, Địa Lý. Lực lượng giáo viên nữ chiếm tỷ lệ cao gây khó khăn cho nhà trường. Tình trạng thiếu giáo viên cục bộ diễn ra thường xuyên đối với cả 4 trường do nghỉ sinh con, nghỉ vì con bị ốm đau Sự thiếu giáo viên cục bộ như vậy ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng đào tạo của 4 trường THPT huyện Phong Điền. Biểu đồ 2.2: Sự phân bổ về giới tính của ĐNGV tính đến năm học 2013 – 2014 60 50 40 30 Nữ Nam 20 10 0 Nữ Nam Cơ cấu theo chuyên môn: Bảng 2.7: Cơ cấu theo chuyên môn của ĐNGV THPT Số lượng STT Môn Năm học Năm học Năm học 2011-2012 2012-2013 2013-2014 1 Ngữ văn 40 44 41 2 Lịch sử 13 14 15 38
  39. 3 Địa lý 14 15 15 4 GDCD 8 8 8 5 Ngoại ngữ 38 39 40 6 Toán 41 41 42 7 Tin học 10 11 12 8 Vật lý 22 24 24 9 Hóa học 22 23 24 10 Sinh học 15 15 16 11 Công nghệ 7 7 8 12 Thể dục 11 12 13 13 GDQP 6 7 8 Tổng 247 260 266 (Nguồn: Báo cáo thống kê của 4 trường THPT) Số lượng giáo viên tương đối đồng bộ ở các bộ môn, tập trung đông ở các môn Ngữ văn, Toán, Vật lý, Hóa học và Ngoại ngữ. Với bộ môn Giáo dục quốc phòng - an ninh đa số các trường giao môn học này cho giáo viên thể dục có chứng chỉ Giáo dục quốc phòng - an ninh giảng dạy. Cơ cấu theo trình độ đào tạo: Bảng 2.8: Trình độ đào tạo từ năm học 2011-2012 đến 2013-2014 Năm học 2011-2012 Năm học 2012-2013 Năm học 2013-2014 Trình độ SL % SL % SL % Đại học 231 93.5 232 89.2 229 86.1 Thạc sĩ 16 6.5 28 10.8 37 13.9 Tiến sĩ 0 0 0 0 0 0 (Nguồn: Báo cáo thống kê của 4 trường THPT) Trình độ đào tạo là một trong những nhân tố cấu thành chất lượng đội ngũ. Trong thực tế, trình độ đào tạo thể hiện thông qua bằng cấp. Theo quy định, trình độ đào tạo của giáo viên THPT là phải tốt nghiệp đại học, đây là chuẩn mà mỗi giáo viên phải đạt. Kết quả bảng 2.9 cho thấy, về mặt trình độ đào tạo của ĐNGV THPT huyện Phong Điền đều đạt chuẩn và trên chuẩn. Bên cạnh đó đều đã qua đào tạo từ các trường sư phạm, do đó đều có nghiệp vụ sư phạm. 2.2. Khái quát quá trình khảo sát thực trạng công tác GDTC ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế Nhằm khảo sát, đánh giá thực trạng, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau: Phương pháp điều tra bằng phiếu hỏi - Chọn mẫu điều tra: Tác giả đã trưng cầu ý kiến CBQL, GV dạy thể dục và HS của 4 trường THPT trên địa bàn huyện Phong Điền ( Trong đó, gồm: 12 CBQL, 17 GVTD, 360 HS). 39
  40. - Nội dung điều tra: Về nhận thức của HT, GV, HS đối với công tác GDTC; thực trạng tổ chức; đội ngũ GV thể dục; chất lượng công tác GDTC; những khó khăn, bất cập hiện nay về quản lý công tác GDTC; điều kiện đáp ứng hoạt động GDTC trong trường THPT Phương pháp kết hợp tọa đàm, phỏng vấn lấy ý kiến chuyên gia 2.3. Thực trạng công tác GDTC ở các trường THPT huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế 2.3.1. Thực trạng nhận thức của CBQL, GV, HS về công tác GDTC Để đánh giá nhận thức của HT, GV, HS các trường THPT ở Phong Điền về mức độ cần thiết của công tác GDTC ở nhà trường THPT, trong phiếu hỏi ý kiến của cả ba đối tượng nêu trên, chúng tôi đưa ra bốn mức độ: l) Rất cần thiết; 2) Cần thiết; 3) Có cũng tốt không cũng chẳng sao; 4) Không cần thiết. Để lý giải cho nhận thức về mức độ cần thiết, chúng tôi cũng đưa ra 7 lý do, trong đó có bốn lý do tích cực và ba lý do mang tính tiêu cực, ngoài ra chúng tôi cũng có đề nghị cho biết một số lý do khác, ngoài các lý do chúng tôi đã đưa ra. Kết quả khảo sát được thống kê trong bảng sau: Bảng 2.1: Nhận thức của CBQL, giáo viên, học sinh về công tác GDTC Đối tượng HS GV CBQL Mức độ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ SL Tỷ lệ Rất cần thiết 63 17.5% 16 94.11% 10 83.33% Cần thiết 234 65,0% 1 5.88% 2 16.66% Có cũng tốt, không cũng chẳng 51 14.2% 0 0 0 0 sao Không cần thiết 12 3.3% 0 0 0 0 Bảng 2.2: Lý do nhận thức Đối tượng HS GV CBQL Lý do SL TL SL TL SL TL 40
  41. GDTC mang lại cho HS: Cưòng tráng về thể chất 351 97,5% 17 100% 12 100% Phát triển cao về trí tuệ 267 74,2% 10 58.82% 7 58.33% Trong sáng về đạo đức 195 54,2% 10 58.82% 9 75% Cuộc sống vui tươi và lành mạnh 342 95,0% 15 88.23% 12 100% Tốn kém thời gian, công sức 33 9,1% 0 0 0 0 Anh hưỏng không tốt đến chất 21 5,8% 0 0 0 0 lượng đào tạo Tinh thần thi đua không lành 12 3,3% 0 0 0 0 mạnh Kết quả điều tra thu được ở bảng 2.1 cho thấy: có 82,5% HS; 100% GV; 100% CBQL đều cho rằng công tác GDTC trong nhà trường là rất cần thiết và cần thiết. Điều đó hoàn toàn phù hợp với đường lối, chính sách quan tâm phát triển thể chất cho HS (thanh thiếu niên ) của Đảng và Nhà nước ta, phù hợp với chủ trương của Bộ GDĐT (Quy chế GDTC và Y tế trường học) (ban hành kèm theo QĐ 14/2001/QĐ-BGD & ĐT ngày 03.05.2001). Tuy nhiên, vẫn còn 17,5% HS coi nhẹ vai trò GDTC trong nhà trường, chưa thấy hết được tác dụng của GDTC đối với sự phát triển của cơ thể thanh thiếu niên. Mặc dù số lượng này chiếm một tỉ lệ rất nhỏ, nhưng đây cũng là một vấn đề đặt ra cho GV và lãnh đạo các cấp. Về lý do: Ở bảng 2.2, sau khi lấy ý kiến, ngoài 7 lý do chứng tôi đưa ra, không có HS, GV, CBQL nào đưa ra lý do nào khác. Trong 7 lý do chúng tôi đưa ra thì đại đa số HS, GV và CBQL đều chọn những lý do tích cực; trong đó, lý do giúp HS cường tráng về thể chất, có cuộc sống vui tươi lành mạnh được lựa chọn nhiều nhất. Điều đó cũng đã lý giải vì sao công tác GDTC trong các trường THPT ở huyện Phong Điền đã có những chuyển biển tích cực. Tuy nhiên, vẫn còn 18,2% ý kiến của HS cho rằng, hoạt động thể thao mất thời gian, ảnh hưỏng đến học tập các môn khác, đem lại những biểu hiện thi đua không lành mạnh, thiếu trung thực, mặc dù đó là hiện tượng ít phổ biến và đã được nhà trường thường xuyên nhắc nhở, giáo dục. 2.3.2. Thực trạng về quá trình tổ chức công tác GDTC ở các trường THPT huyện Phong Điền 2.3.2.1. Hình thức tổ chức công tác GDTC ở các trường THPT. 41
  42. Để tìm hiểu về hình thức tổ chức công tác GDTC ở các trường THPT huyện Phong Điền, chúng tôi đã đưa ra ba loại hình thức tổ chức cơ bản của công tác GDTC trong nhà trường, đó là: - Giờ thể dục: Đây là giờ học bắt buộc thực hiện thống nhất theo chương trình quy định của Bộ GD-ĐT, nhằm giải quyết nhiệm vụ của GDTC trong nhà trường. - Các hình thức nghỉ ngơi tích cực: là những hình thức tập luyện hằng ngày có tổ chức theo nhóm hoặc cá nhân HS như thể dục buổi sáng, thể dục giữa giờ, các trò chơi vui khỏe nhằm bồi dưỡng sức khoẻ trong chế độ sinh hoạt và học tập hàng ngày của HS. - Các hoạt động ngoại khoá: thành lập đội tuyển các môn TDTT, tổ chức thi đấu thể thao, tham gia HKPĐ, tham quan và nghe nói chuyện về đề tài TDTT. Qua phiếu điều tra ở 4 trường THPT của huyện Phong Điền chúng tôi thu được kết quả như sau: Ngoài 3 hình thức chúng tôi đưa ra trong câu hỏi cho GV và CBQL, không có hình thức nào khác được thực hiện trong các trường THPT ở Phong Điền. Về thực hiện giờ thể dục: tất cả các trường THPT đều thực hiện nghiêm túc kế hoạch, nội dung chương trình môn thể dục cho tất cả các khối lớp, bao gồm: Điền kinh (chạy ngắn, chạy trung bình, nhảy cao, nhảy xa, ném bóng ), thể dục (thể dục tay không, thể dục gậy), các giờ học được tiến hành đúng quy trình cấu trúc nhằm hoàn thành nhiệm vụ đề ra; tất cả các khối lớp đều dạy đủ 2 tiết thể dục trong 1 tuần, trong đó cả 4 trường đều thực hiện dạy 2 tiết liên tục trong một buổi, học chéo buổi với các môn khác (xem phụ lục 5). Như vậy, có thể thấy rằng công tác GDTC ở các trường THPT huyện Phong Điền được thực hiện dưới nhiều hình thức đa dạng phong phú, trong đó hình thức giờ thể dục đã có 100% trường thực hiện đúng yêu cầu. Về các hình thức tổ chức hoạt động nhằm tăng cường lượng vận động, bồi dưỡng sức khoẻ cho HS: qua phỏng vấn giáo viên và cán bộ quản lý ở các trường, chúng tôi nhận thấy tất cả các trường đều không có hình thức thể dục buổi sáng, thể dục giữa giờ. Việc tăng cường lượng vận động, tính tích cực trong rèn luyện, đa dạng hoá bằng các trò chơi rất hạn chế ở tất cả các trường. Lý do: Sân chơi các trường không đủ cho cho HS đứng tập; đặc điểm lứa tuổi HS THPT không thích hợp với hình thức thể dục buổi sáng, thể dục giữa giờ; mặt khác, thời lượng giành cho hoạt động này không đảm bảo. GV thể dục chỉ mới quan tâm đến việc hoàn thành chương trình giảng dạy, chưa quan tâm thích đáng đầu tư tổ chức các trò chơi vận động, bổ trợ cho việc tăng cường lượng vận động, đa dạng hóa các hình thức vận 42
  43. động nhằm nâng cao tính tích cực trong rèn luyện thể lực cho HS. Tuy nhiên, theo chúng tôi, vấn đề tăng cường lượng vận động có thể khắc phục được, vấn đề quan trọng nhất là sự tích cực quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo nhà trường. Đối với các GV phụ trách cần quan tâm thay đổi hình thức, động tác để tạo cho HS tập luyện khỏi nhàm chán. Để nắm thực trạng việc tổ chức các hoạt động ngoại khoá, chúng tôi đưa ra 3 loại hình phổ biến nhất đó là: Thành lập đội tuyển các môn TDTT: nhằm phát hiện, bồi dưỡng thành tích cao và là cơ sở cho việc tham gia tốt các hoạt động thi đấu giúp các em định hưóng nghề nghiệp phù hợp với năng lực của mình. Tổ chức thi đấu thể thao, tham gia HKPĐ ở cơ sở: Ngoài công tác giảng dạy chính khóa, đây là những hoạt động thường được tổ chức hằng năm trong nhà trường, qua đó để đánh giá thành tích tập luyện của HS, đồng thời là cơ sở để tuyển chọn đội tuyển cho trường tham gia KHPĐ của cấp cao hơn. Tổ chức nói chuyện về TDTT, tham quan : là những hoạt động hướng tới việc nâng cao nhận thức, tạo lòng say mê, ham thích đối với TDTT. Kết quả: Về việc thành lập đội tuyển các môn: có 4/4 trường thực hiện; tập luyện với mức độ thường xuyên: có 10/12 CBQL xác nhận (83.33%), có 16/17 GV thể dục xác nhận (94.11%). Về việc tổ chức thi đấu thể thao, HKPĐ cơ sở: 4/4 trường có tổ chức. Về việc nghe nói chuyện về TDTT, tham quan : Chưa có trường nào trong 4 trường có tổ chức. Kết quả 100% trường có tổ chức thi đấu thể thao, HKPĐ là một kết quả tích cực của các trường nhằm chuẩn bị tuyển chọn lực lượng vận động viên tham gia HKPĐ cấp tỉnh tổ chức định kỳ 4 năm/lần, hội thi Điền kinh cấp tỉnh tổ chức định kỳ 1 năm/lần. Tuy nhiên, trong việc tổ chức cần chú ý đến các bộ môn phù hợp với đặc điểm thế mạnh của địa phương, nhằm nâng cao thành tích và kích thích sự rèn luyện của HS. Việc không có trường nào tổ chức nói chuyện về đề tài TDTT cho thấy HT các trường ít chú ý đến việc tổ chức báo cáo chuyên đề cho HS. Điều này đã làm hạn chế nhận thức, cũng như thái độ, hành vi của HS trong quá trình GDTC. 2.3.2.2. Thực trạng về nội dung GDTC ở các trường THPT huyện Phong Điền Nội dung của GDTC ở trường THPT trong giới hạn nghiên cứu, gồm: Những nội dung của giờ thể dục (còn gọi là giờ thể dục chính khoá) và các hoạt động TDTT ngoài 43
  44. giờ quy định (còn gọi là TDTT ngoại khoá). Để tìm hiểu mức độ quan tâm của GV và CBQL đến các nội dung GDTC ở các trường THPT, trong phiếu hỏi chúng tôi đưa ra các nội dung sau: Chương trình thể dục chính khoá gồm: Phần bắt buộc: Lý thuyết chung, đội hình đội ngũ, các bài tập thể dục phát triển chung, các trò chơi và động tác bổ trợ, các môn điền kinh. Phần tự chọn: gồm bóng đá, bóng bàn, bóng chuyền, bơi lội, cờ vua, đá cầu, võ, bóng ném, cầu lông. Chương trình GDTC ngoại khoá gồm: thể dục buổi sáng, thể dục giữa giờ, các hoạt động trò chơi vận động, thành lập đội tuyển các môn thể thao, tham gia HKPĐ, tham quan và nghe nói chuyện về TDTT Qua phiếu điều tra các GV thể dục và CBQL của 4 trường THPT trên địa bàn huyện Phong Điền, chúng tôi thu được kết quả như sau: (Xem phụ lục 3) Chương trình thể dục chính khóa: Về việc tổ chức giờ học thể dục phần bắt buộc: Có 4/4 trường thực hiện dạy và học môn thể dục, đảm bảo thời gian thực hiện 2 tiết/tuần và thực hiện đầy đủ các nội dung phần bắt buộc, tuy nhiên phần hướng dẫn các trò chơi và động tác bổ trợ ít được quan tâm. Một trong những đặc điểm của môn học thể dục là dạy - học chủ yếu ở ngoài trời, do đó rất phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, nhưng thực tế việc thực hiện chương trình giờ thể dục ở trường thường áp dụng theo phân phối chương trình một cách cứng nhắc, đó cũng là mặt hạn chế hiệu quả giờ dạy thể dục. Về việc tổ chức các môn thể thao tự chọn: Ngoài giờ học bắt buộc, việc tổ chức các môn thể thao tự chọn cho HS là rất cần thiết để giúp HS có thể vừa học tập lý thuyết, vừa tham gia được các môn thể thao ưa thích, nhằm phát triển các tố chất thể lực, bồi dưỡng năng khiếu TDTT, cũng như hình thành những phẩm chất đạo đức nhất định (Ví dụ: Bóng đá vừa là môn phát triển tốc độ vận động sức mạnh cơ bắp, khả năng phản xạ nhanh nhạy vừa hình thành và phát huy tinh thần đồng đội, ý thức hợp tác, công bằng, trung thực ). Đồng thời qua đó để phát hiện và bồi dưỡng những em có năng khiếu về môn thể thao này. Kết quả khảo sát các trường THPT ở Huyện Phong Điền cho thấy tất cả 4 trường đều có tổ chức các môn thể thao tự chọn và số trường thực hiện các môn như sau: Bóng đá: 4/4 trường; Bóng bàn: 1/4 trường; Bóng chuyền: 4/4 trường; Bơi lội: 1/4 44
  45. trường; Cờ vua: 0/4 trường; Đá cầu: 3/4 trường; Võ: 0/4 trường; Cầu lông: 3/4 trường. Qua nội dung các môn thể thao phần tự chọn, chúng tôi nhận thấy các trường đã cố gắng tổ chức nhiều môn cho HS tham gia, tuy nhiên với bộ môn bơi lội là môn rất cần thiết cho các em, đặc biệt đối với địa bàn huyện Phong Điền là vùng trũng thấp, hằng năm có nhiều lũ lụt, việc đi lại của các em trong thời gian này rất nguy hiểm, nếu biết bơi thì an toàn hơn cho các em. Nhưng chỉ có 1 trường có tổ chức hướng dẫn môn này. Bởi vậy, đây là một vấn đề cần được các trường quan tâm chỉ đạo tổ chức phổ cập bơi cho HS trong điều kiện cho phép. Với kết quả việc tổ chức các môn thể thao tự chọn trên, cho chúng ta thấy bóng đá là môn thể thao được ưu tiên và hay tổ chức nhất, do nó phù hợp với sở thích và nguyện vọng của đông đảo HS. Tuy nhiên, chỉ có bóng đá nam mà thiếu hẳn bóng đá nữ. Cầu lông, cờ vua là những môn thu hút cả nam lẫn nữ , có thể là do sự tiện lợi của nó, các em đều có khả năng mua vợt, cầu, bàn cờ để sử dụng, hơn nữa khi tập luyện cũng dễ kiếm người cùng tham gia. Các môn khác như: bóng bàn, võ, bóng chuyền ít được tổ chức, lý do: Đây là những khó chơi, đòi hỏi phải kiên trì tập luyện mới chơi tốt, hơn nữa ở Phong Điền nhiều tường không có GV thể dục chính qui, nên việc ít trường tổ chức là điều hợp lý. Các hoạt động ngoại khoá: Để tìm hiểu việc thực hiện các nội dung ngoại khóa trong các trường THPT ở Phong Điền chúng tôi đưa ra 5 nội dung chính, trong đó có 2 nội dung nhằm tăng cường sức khoẻ, 2 nội dung liên quan đến hoạt động thi đấu thể thao và 1 nội dung nhằm nâng cao sự hiểu biết các vấn đề TDTT và sức khoẻ. Ngoài 5 nội dung đó, chúng tôi đề nghị GV, CBQL bổ sung những nội dung nào mà trường họ đã thực hiện. Kết quả khảo sát cho thấy: Không có trường nào tổ chức thể dục đầu giờ, thể dục giữa giờ. Lý do: Không phù hợp với đối tượng HS THPT và không đảm bảo về mặt thời gian. Không có trường nào tổ chức trò chơi vui khoẻ trong giờ ra chơi: dưới hình thức các trò chơi tập thể và các hoạt động thể thao giải trí như đá cầu, nhảy dây Không có trường nào tổ chức tham quan; rất ít trường báo cáo chuyên đề về TDTT cho HS. Kết quả thống kê cũng cho thấy các nội dung khác ngoài 5 nội dung đưa ra trong bảng câu hỏi cũng không có trường nào thực hiện. Như vậy, các hoạt động nghỉ ngơi tích cực ngoài giờ học chính khóa ở cả 4 trường là hết sức hạn chế. Cả 4 trường đều có thành lập đội tuyển các môn thể thao và có kế hoạch tập luyện 45
  46. thường xuyên, điều này một mặt phản ánh sự quan tâm của các HT và GV thể dục đối với các hoạt động ngoại khóa của trường, mặt khác phản ánh một thực tế là hiện nay chất lượng giáo viên thể dục đã được cải thiện đáng kể, đủ khả năng hướng dẫn kỹ thuật một số môn thể thao, nên việc tổ chức huấn luyện đội tuyển không còn là một khó khăn thách thức nữa. Vì vậy, việc tổ chức HKPĐ trong các trường trong những năm gần đây được thực hiện nghiêm túc, có 4/4 trường tổ chức HKPĐ và đã cập nhật những nội dung thi đấu mới vào nội dung HKPĐ cấp trường, tạo ra không khí tập luyện ở các trường sôi nổi hơn. Tuy nhiên trong công tác tổ chức, trọng tài, sân bãi, dụng cụ thi đấu, đang là những vấn đề khó khăn cần giải quyết. 2.3.2.3. Thực trạng về việc thực hiện kế hoạch công tác GDTC Công tác GDTC trong trường THPT, với đặc thù là bộ môn thể dục và các hoạt động thể thao. Kế hoạch công tác GDTC chính là chương trình hành động cụ thể của nhà trường nhằm đảm bảo kết quả lớn nhất trong hoạt động dạy - học và các hoạt động rèn luyện nâng cao thể chất cho HS. Bởi vậy, qua công tác kế hoạch, chúng ta dự kiến được quá trình dạy học, hoạt động TDTT và con đường đi đến kết quả đó, sao cho phù hợp với các nhiệm vụ của mỗi giai đoạn. Kế hoạch công tác GDTC được xây dựng dựa trên cơ sở của nhiều yếu tố như mục tiêu, nhiệm vụ, các kết quả cụ thể cần phải đạt được các điều kiện thực tế của nhà trường Trong câu hỏi điều tra, chúng tôi đưa ra 3 loại kế hoạch cơ bản của GDTC trong trường THPT đó là: Kế hoạch năm: Bao gồm nội ngoại khoá, cơ sở vật chất Đây là kế hoạch chung nhất, nêu một cách hệ thống các nội dung cơ bản trong chương trình thể dục, các hoạt động thể thao theo học kỳ, tháng, tuần, từng giờ. Ngoài ra còn xác định bài kiểm tra, các ngày hội thể thao trong năm học Kế hoạch học kỳ: nhằm cụ thể hoá thêm một bước kế hoạch năm học về nội dung chương trình, phương pháp và nhiệm vụ GDTC, đảm bảo tính kế thừa và mối quan hệ giữa các nội dung, giữa các giờ học. Kế hoạch theo vấn đề: Được xây dựng theo từng chủ đề, từng nội dung cụ thể của công tác GDTC. Kết quả điều tra cho thấy: Không có trường nào, giáo viên nào xây dựng đủ cả 3 loại kế hoạch. Nếu xem xét từng loại kế hoạch, kết quả như sau: - Có 82.35% GV và 83.33% số trường xây dựng loại kế hoạch toàn năm học. - Có 52.94% GV và 8.33% số trường xây dựng kế hoạch học kỳ. - Không có GV nào, trường nào xây dựng kế hoạch theo vấn đề. 46
  47. Nhận xét: Các GV thể dục và HT các trường có quan tâm đến việc xây dựng kế hoạch cho công tác GDTC từng năm học Tuy nhiên, ít quan tâm đến kế hoạch cụ thể cho từng học kỳ, cho từng nội dung vấn đề, chẳng hạn như kế hoạch tổ chức HKPĐ, kế hoạch thi đấu thể thao, kế hoạch kiểm tra phát triển thể chất sức khoẻ cho HS đầu năm Thực tế này cho thấy GV chưa tích cực chủ động xây dựng kế hoạch và tham mưu tốt cho HT, đồng thời các điều kiện cơ sỏ vật chất, kinh phí hoạt động đang khó khăn do đó, các trưòng thưòng tập trung cho hoạt động dạy học các bộ môn khác, ít quan tâm đến môn thể dục và các hoạt động thể thao trong nhà trưòng. Theo chúng tôi: hiệu trưỏng cần tăng cường chỉ đạo, kiểm tra việc xây dựng kế hoạch GDTC của các GV thể dục và xây dựng tốt kế hoạch tổ chức chỉ đạo công tác GDTC của nhà trường, để đảm bảo tính liên tục, kế thừa và phù hợp với đặc điểm của nhà trường, của địa phương nhằm tổ chức các hoạt động. Khi xây dựng kế hoạch công tác GDTC, Bộ GD-ĐT lưu ý các trường: “Một trong những đặc điểm của môn học thế dục là dạy - học chủ yểu ở ngoài trời, do đó rất phụ thuộc vào khí hậu, thời tiết, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học ở địa phương. Vì vậy, chương trình lả pháp lệnh, nhưng phân phối chương trình không áp dụng đồng loạt, cứng nhắc như trước, mà chỉ có tính chất chỉ dẫn, tham khảo. Mỗi quận, huyện căn cứ trên thực tiễn của mình, có thể áp dụng theo phân phối chương trình của Bộ hoặc chỉnh sửa cho phù hợp với thực tiễn để thực hiện thống nhất ở địa phương mình trên nguyên tắc không cắt xén quỹ thời gian và nội dung”. Theo chúng tôi, HT cần quán triệt quan điểm chỉ đạo của ngành, tăng cường kiểm tra việc xây dựng kế hoạch GDTC của các GV thể dục và xây dựng tốt kế hoạch tổ chức chỉ đạo công tác GDTC của nhà trường, để đảm bảo tính liên tục, kế thừa và phù hợp với đặc điểm của nhà trường, nhằm chủ động thực hiện tốt các hoạt động GDTC. 2.3.2.4. Thực trạng về chất lượng công tác GDTC Để đánh giá chất lượng công tác GDTC, chúng tôi chủ yếu dựa trên 2 cơ sở sau đây: - Kết quả học tập chính khoá của HS ở các trường THPT huyện Phong Điền, năm học 2013-2014. - Kết quả điều tra về đánh giá chất lượng GDTC của CBQL và GV dạy thể dục. Kết quả xếp loại học tập bộ môn thể dục chính khoá của HS 4 trường năm học 2013-2014: Bảng 2.3: Kết quả đánh giá bằng xếp loại môn Thể dục (theo Thông tư 58/2011/TT-BGDĐT, ngày 12/12/2011 của Bộ GD&ĐT) 47
  48. Xếp loại Trường Đạt Chưa đạt SL TL SL TL Nguyễn Đình Chiểu 1082 100% 0 0% Phong Điền 862 100% 0 0% Trần Văn Kỷ 941 100% 0 0% Tam Giang 1025 100% 0 0% (Nguồn: Báo cáo thống kê của 4 trường THPT) Ý kiến đánh giá của CBQL và GV thể dục về chất lượng GDTC các trường THPT huyện Phong Điền thể hiện ở kết quả thống kê (Bảng 2.4). Bảng 2.4: Kết quả chất lượng GDTC Đối tượng Giáo viên CBQL Tổng cộng Xếp loại S.L Tỷ lệ S.L Tỷ lệ S.L Tỷ lệ Rất tốt 7 41.17% 0 0% 7 24.13% Tốt 8 57.06% 11 91.66% 19 65.51% Khá 1 5.88% 1 8.33% 2 6.89% Đạt yêu cầu 1 5.88% 0 0% 1 3.44% Còn yếu 0 0% 0 0% 0 0% Những cơ sở để CBQL và GV làm căn cứ đánh giá là: - Căn cứ vào kết quả học tập môn thể dục để đánh giá - Căn cứ vào kết quả thi đấu HKPĐ - Căn cứ vào kết quả môn thể thao tự chọn, thành tích các môn năng khiếu - Căn cứ vào sự phát triển thể chất của HS - Căn cứ vào kết quả sinh hoạt tập thể Nhận xét: Những con số được thể hiện ở bảng 3 và 4 cho thấy HS các trường THPT Phong Điền đạt được yêu cầu đặt ra đối với môn GDTC bậc THPT, là kết quả của cả quá trình học tập, rèn luyện, kiểm tra của HS được GV thể dục đánh giá trong các giờ thể dục, kết quả này thể hiện năng lực vận động, kỹ thuật động tác của HS. Với tỷ lệ 96.53% HS được xếp loại khá giỏi, không có HS xếp loại yếu, điều này cho thấy các HS THPT ở huyện Phong Điền có năng lực hoạt động và khả năng thực hiện tốt kỹ thuật động tác, được GV thể dục đánh giá cao. Kết quả môn học phù hợp với đánh giá của CBQL và GV về công tác GDTC ở 48