SKKN Một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo phương pháp dạy học tích cực

doc 30 trang vanhoa 5042
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo phương pháp dạy học tích cực", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_chi_dao_day_hoc_theo_phuong_phap_day_h.doc

Nội dung tóm tắt: SKKN Một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo phương pháp dạy học tích cực

  1. SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Đề tài: “Một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo phương pháp dạy học tích cực” Lĩnh vực : Quản lý Cấp : Tiểu học Họ và tên : Phùng Thị Ngọc Lưu Chức vụ : Phó hiệu trưởng Đơn vị công tác : Trường Tiểu học Ba Trại B Ba Vì – Hà Nội. Hà Nội - 2018 \ 1
  2. PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong Luật Giáo dục, điều 24.2, đã ghi: “ Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh; phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn; tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh” Mục tiêu của phương pháp trong giáo dục phổ thông ở nước ta là rất rõ ràng, bởi vậy Nghị quyết số 29- NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8, khoá XI về Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, trong phần Nhiệm vụ và giải pháp có nêu: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”. Như vậy, có thể nói, một phần quan trọng đóng góp để “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo” đó chính là đổi mới phương pháp dạy học. Các tài liệu giáo dục ở nước ngoài và trong nước hay một số văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo thường nói đến Phương pháp dạy học tích cực. Phương pháp dạy học tích cực là một thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, tức là tập kết vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập kết vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì người dạy phải nỗ lực nhiều hơn so với dạy theo phương pháp thụ động. Trong bậc học phổ thông, thời gian học tập của học sinh tiểu học chiếm thời lượng nhiều nhất và lượng kiến thức ở bậc học này chính là nền tảng vô cùng quan trọng cho những cấp học tiếp theo. Nhưng ở lứa tuổi này, việc dạy cho các em thích học, biết cách học không phải là đơn giản, đòi hỏi người giáo viên không chỉ vững kiến thức, tâm huyết trong công việc mà còn phải có kĩ năng sư phạm tốt, linh hoạt sử dụng các phương pháp phù hợp để các em hứng thú với việc học và đạt được kết quả tốt nhất. 2
  3. Trong những năm gần đây, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, ở các trường tiểu học vùng nông thôn và miền núi được trang bị cơ sở vật chất, đồ dùng, phương tiện dạy học tương đối đầy đủ, đội ngũ giáo viên đào tạo bài bản, được bồi dưỡng thường xuyên nên chất lượng dạy và học đã được nâng cao. Nhưng thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới về cách dạy học theo hướng hiện đại hiện nay, nhất là dạy học theo định hướng “ Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh hay còn gọi là Phương pháp dạy học tích cực. Trên lí thuyết, đa số giáo viên đều nêu được những yêu cầu cần đổi mới về phương pháp dạy học nhưng đổi mới như thế nào thì không phải giáo viên nào cũng hiểu và thực hiện được một cách hiệu quả vì đa số họ được đào tạo theo cách truyền thống, dạy theo cách truyền thống trong một thời gian dài nên việc hiểu và thay đổi cách dạy không phải là dễ dàng, mà ở đây đòi hỏi người giáo viên phải tâm huyết, tích cực trau dồi về chuyên môn, hiểu rõ bản chất, cách thức của các phương pháp dạy học tích cực. Ở nông thôn và miền núi, dân chí còn thấp nên phụ huynh vẫn còn những quan điểm và suy nghĩ lạc hậu về cách học của con em mình, họ coi trọng cách học truyền thống: thầy giảng nhiệt tình, trò chăm chú nghe và ghi chép Đây cũng là lí do để giáo viên không muốn thay đổi phương pháp dạy học của mình. Mặt khác cán bộ quản lí một phần do nhận thức và trình độ đào tạo, ảnh hưởng theo lối cũ, chưa có sự chuyển biến một cách sâu sắc và kịp thời nên chất lượng cũng như hiệu quả dạy và học ở các trường còn rất hạn chế. Trong năm học 2017- 2018, được phân công phụ trách về chuyên môn, tôi đã ý thức rất rõ về trách nhiệm công việc được giao nên cố gắng tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, năng lực quản lí. Với nhận thức sâu sắc của một người quản lí về việc đổi mới phương pháp dạy học là thực sự cấp bách và cần thiết, qua các hội nghị chuyên môn, chuyên đề do phòng giáo dục tổ chức tôi đã dành thời gian nghiên cứu, tìm hiểu về Phương pháp dạy học tích cực ở trường tiểu học và đã áp dụng được bước đầu có hiệu quả trong công tác chỉ đạo về chuyên môn. Để góp phần nâng cao hiệu quả trong công tác đổi mới phương pháp dạy học ở trường tiểu học, tôi mạnh dạn chia sẻ kinh nghiệm qua sáng kiến: “ Một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo phương pháp dạy học tích cực” II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: 1. Mục đích nghiên cứu: - Khẳng định việc đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh trong trường Tiểu học là cần thiết và cấp bách. - Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho bản thân cũng như cho giáo viên trong nhà trường theo phương pháp dạy học hiện đại. - Giúp học sinh tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập từ đó phát triển về năng lực phẩm chất góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu : 3
  4. - Tìm hiểu nội dung một số vấn đề lý luận cơ bản của phương pháp dạy học tích cực và việc đổi mới theo phương pháp dạy học tích cực. - Tìm hiểu thực trạng và những nguyên nhân của việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. - Đề xuất một số biện pháp trong công tác chỉ đạo việc dạy học theo phương pháp dạy học tích cực . 3. Phạm vi nghiên cứu - Đề cập đến những biện pháp chỉ đạo việc dạy học theo phương pháp dạy học tích cực trong trường Tiểu học. - Thời gian nghiên cứu: Năm học 2017 - 2018 III. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: - Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Đọc tài liệu, sách báo có liên quan đến vấn đề phương pháp dạy học tích cực và hoạt động đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường phổ thông nhằm khai thác những vấn đề cơ bản về lý luận phục vụ cho nhiệm vụ và mục đích đề tài. - Phương pháp quan sát trò chuyện: Tuy đây không phải là phương pháp chủ yếu, song nó giữ vai trò quan trọng trong quá trình nghiên cứu. Để phục vụ cho nhiệm vụ nghiên cứu và mục đích nghiên cứu của đề tài, tôi tiến hành quan sát hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh để thu thập những tài liệu bổ ích nhằm kiểm tra, bổ sung cho những kết quả thu được từ các phương pháp khác nhau. - Phương pháp điều tra: Sử dụng phiếu điều tra gồm: + Những câu hỏi cho giáo viên + Những câu hỏi cho học sinh Để tìm hiểu thực trạng dạy và học của giáo viên và học sinh trong nhà trường. - Phương pháp thực nghiệm đối chứng: Đối chứng kết quả sau khi áp dụng sáng kiến với năm học trước. - Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Để xử lý số liệu tìm ra mối quan hệ giữa các vấn đề nghiên cứu của đề tài. 4
  5. PHẦN II NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. CƠ SỞ LÍ LUẬN Trong quá trình dạy học, người học vừa là đối tượng của hoạt động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Thông qua hoạt động học, dưới sự chỉ đạo của người thầy, người học phải tích cực chủ động cải biến chính mình về kiến thức, kĩ năng, thái độ, hoàn thiện nhân cách, không ai làm thay cho mình được. Vì vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không chịu học, không có phương pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế. Đổi mới phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực học tập được xem như một nguyên tắc dạy học đảm bảo chất lượng và hiệu quả đã được nói đến từ lâu không chỉ ở nước ta mà đã có từ lâu trên thế giới, nhất là ở các nước có nền giáo dục tiên tiến. Các thuật ngữ “ dạy học tập trung vào người học” "dạy học căn cứ vào người học" hay "dạy học hướng vào người học" có chung một nội dung hàm ý là nhấn mạnh hoạt động dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Dạy học " lấy học sinh làm trung tâm là một xu hướng tất yếu" trong lịch sử giáo dục. Ở thời kỳ chưa hình thành tổ chức trường lớp, việc dạy học thường được tổ chức theo phương thức một thầy - một trò, hoặc thầy dạy cho một nhóm nhỏ học trò. Học trò trong một nhóm có thể chênh lệch nhau khá nhiều về độ tuổi và trình độ. Chẳng hạn thầy đồ nho ở nước ta dưới thời phong kiến dạy trong cùng một lớp từ đứa trẻ bắt đầu đi học "tam tự kinh" đến môn sinh chuẩn bị thi tú tài, cử nhân. Trong tổ chức dạy học như vậy ông thầy bắt buộc phải coi trọng nhu cầu, trình độ năng lực, tính cách của mỗi học trò, và cũng có điều kiện để thực hiện cách dạy thích hợp với mỗi học trò, phát huy vai trò chủ đạo sáng tạo của người học. Kiểu học một thầy hoặc một thầy - một nhóm nhỏ học vẫn tồn tại cho đến nay, trong một số loại hình đào tạo, đặc biệt như âm nhạc, hội họa. Tuy nhiên như vậy thì năng suất dạy học quá thấp. Từ khi xuất hiện tổ chức trường với những lớp học có nhiều học sinh cùng lứa tuổi và trình độ tương đối đồng đều thì giáo viên khó có điều kiện chăm lo từng học sinh, giảng dạy sát với đặc điểm của từng em. Từ tình hình đó hình thành kiểu dạy "thông báo - đồng loạt". Giáo viên quan tâm trước hết đến việc hoàn thiện trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết nội dung quy định trong chương trình và sách giáo khoa, cố gắng làm cho mọi học sinh hiểu và nhớ những điều thầy giảng. Từ kiểu dạy “thông báo - đồng loạt” đã dần dần hình thành kiểu học thuộc lòng - thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ. Tình trạng này ngày càng phổ biến, đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy học và không đáp ứng được yêu cầu phát triển năng động của xã hội. Để khắc phục tình trạng này, các nhà sư phạm kêu gọi phát huy tính tích cực chủ 5
  6. động học tập của học sinh, thực hiện "dạy học phân hóa" quan tâm đến nhu cầu khả năng của mỗi cá nhân học sinh trong tập thể lớp. Như vậy đòi hỏi phải có sự đổi mới về phương pháp dạy học, người học phải được đặt lại đúng vị trí với bản chất lao động học tập, phù hợp với quy luật khách quan của quá trình dạy học. II. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC VÀ VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC 1. Phương pháp dạy học tích cực 1.1. Phương pháp dạy học tích cực là gì? Phương pháp dạy học tích cực hay dạy học phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh chính là nói đến cách dạy học mà ở đó, giáo viên là người đưa ra những gợi mở cho một vấn đề và cùng học sinh bàn luận, tìm ra mấu chốt vấn đề cũng như những vấn đề liên quan. Phương pháp này lấy sự chủ động tìm tòi, sáng tạo, tư duy của học sinh làm nền tảng, giáo viên chỉ là người dẫn dắt và gợi mở vấn đề. Hay nói cách khác, phương pháp dạy và học tích cực không cho phép giáo viên truyền đạt hết kiến thức mình có đến với học sinh mà thông qua những dẫn dắt sơ khai sẽ kích thích học sinh tiếp tục tìm tòi và khám phá kiến thức đó. 1.2 Đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực: Có bốn đặc trưng cơ bản: * Dạy học thông qua các hoạt động của học sinh Dạy học thông qua tổ chức liên tiếp các hoạt động học tập, từ đó giúp học sinh tự khám phá những điều chưa biết chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức được sắp đặt sẵn. Theo tinh thần này, giáo viên không cung cấp, áp đặt kiến thức có sẵn mà là người tổ chức và chỉ đạo học sinh tiến hành các hoạt động học tập như nhớ lại kiến thức cũ, phát hiện kiến thức mới, vận dụng sáng tạo kiến thức đã biết vào các 6
  7. tình huống học tập hoặc tình huống thực tiễn, Ỏ đây, người học - đối tượng của hoạt động “dạy” đồng thời là chủ thể của hoạt động “học” được cuốn hút vào các hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thông qua đó tự khám phá những điều mình chưa rõ, không phải thụ động tiếp thu những tri thức do giáo viên sắp đặt. Học sinh sẽ dựa vào những điều quan sát trong thực tế, thảo luận hay làm thí nghiệm, tự giải quyết các vấn đề theo suy nghĩ của mình từ đó nắm bắt kiến thức, kĩ năng mới. Dạy theo cách này, giáo viên không chỉ giúp các em nắm được kiến thức mà còn giúp học sinh biết hành động và tích cực tham gia các trương trình hành động của cộng đồng. *Dạy học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học Chú trọng rèn luyện cho học sinh những tri thức phương pháp để các em biết cách đọc sách giáo khoa và các tài liệu học tập, biết cách tự tìm lại những kiến thức đã có, biết cách suy luận để tìm tòi và phát hiện kiến thức mới, Rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học. Trong xã hội hiện nay, với sự bùng nổ của thông tin, khoa học, kĩ thuật và công nghệ, chúng ta không thể nhồi nhét cho học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều đó mà phải dạy cho học sinh phương pháp tự học ngay từ bậc tiểu học và càng lên bậc học cao hơn càng phải được chú trọng. Nếu rèn luyện cho các em có phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì sẽ tạo được lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh về hoạt động học trong quá trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học tập thụ động sang tự học chủ động. * Tăng cường học tập cá thể phối hợp với học tập hợp tác Năng lực hợp tác được xem là một trong những năng lực quan trọng của con người trong xã hội hiện nay, chính vì vậy, phát triển năng lực hợp tác từ trong trường học đã trở thành một xu thế giáo dục trên thế giới. Dạy học hợp tác trong nhóm nhỏ chính là sự phản ánh thực tiễn của xu thế đó. 7
  8. Dạy học nhóm còn được gọi bằng những tên khác nhau như: Dạy học hợp tác, Dạy học theo nhóm nhỏ, trong đó học sinh của một lớp học được chia thành các nhóm nhỏ, trong khoảng thời gian giới hạn, mỗi nhóm tự lực hoàn thành các nhiệm vụ học tập trên cơ sở phân công và hợp tác làm việc. Kết quả làm việc của nhóm sau đó được trình bày và đánh giá trước toàn lớp. Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến ở tiểu học là hoạt động hợp tác trong nhóm. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học tập, nhất là giải quyết những vấn đề khó, phức tạp. Hoạt động nhóm nhỏ sẽ không thể có hiện tượng ỷ lại; năng lực, phẩm chất của mỗi thành viên được bộc lộ: tình bạn gắn bó, ý thức tổ chức kỉ luật cao hơn, có tinh thần tương trợ Mô hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm cho các thành viên quen dần với sự phân công lao động trong tương lai. Tăng cường học tập cá thể với học tập hợp tác theo phương châm “tạo điều kiện cho học sinh nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều hơn”. Điều đó có nghĩa, mỗi học sinh vừa cố gắng tự lực một cách độc lập, vừa hợp tác chặt chẽ với nhau trong quá trình tiếp cận, phát hiện và tìm tòi kiến thức mới. Lớp học trở thành môi trường giao tiếp thầy – trò và trò – trò nhằm vận dụng sự hiểu biết và kinh nghiệm của từng cá nhân, của tập thể trong giải quyết các nhiệm vụ học tập chung. * Kết hợp đánh giá của giáo viên với tự đánh giá theo năng lực của học sinh Chú trọng đánh giá kết quả học tập theo mục tiêu bài học trong suốt tiến trình dạy học thông qua hệ thống câu hỏi, bài tập (đánh giá lớp học). Trong đánh giá thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả mà chú ý cả quá trình học tập. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát triển năng lực không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp. Theo quan điểm phát triển năng lực, việc đánh giá kết quả học tập không lấy việc kiểm tra khả năng tái hiện kiến thức đã học làm trung tâm của việc đánh giá. Đánh giá kết quả học tập theo năng lực chú trọng khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Có thể tổng hợp một số dấu hiệu khác biệt cơ bản giữa đánh giá năng lực người học và đánh giá kiến thức, kỹ năng của người học như sau: Tiêu chí Đánh giá năng lực Đánh giá kiến thức, kỹ năng so sánh - Đánh giá khả năng học sinh vận dụng - Xác định việc đạt kiến thức, 1. Mục các kiến thức, kỹ năng đã học vào giải kỹ năng theo mục tiêu của đích chủ yếu nhất quyết vấn đề thực tiễn của cuộc sống. chương trình giáo dục. - Vì sự tiến bộ của người học so với - Đánh giá, xếp hạng giữa chính họ. những người học với nhau. 8
  9. 2. Ngữ - Gắn với ngữ cảnh học tập và thực tiễn - Gắn với nội dung học tập cảnh đánh cuộc sống của học sinh. (những kiến thức, kỹ năng, giá thái độ) được học trong nhà trường. 3. Nội - Những kiến thức, kỹ năng, thái độ ở - Những kiến thức, kỹ năng, dung đánh nhiều môn học, nhiều hoạt động giáo thái độ ở một môn học. giá dục và những trải nghiệm của bản thân HS trong cuộc sống xã hội (tập trung vào năng lực thực hiện). - Quy chuẩn theo các mức độ phát triển - Quy chuẩn theo việc người năng lực của người học. học có đạt được hay không một nội dung đã được học. 4. Công cụ - Nhiệm vụ, bài tập trong tình huống, bối - Câu hỏi, bài tập, nhiệm vụ đánh giá cảnh thực. trong tình huống hàn lâm hoặc tình huống thực. 5. Thời - Đánh giá mọi thời điểm của quá trình - Thường diễn ra ở những thời điểm đánh dạy học, chú trọng đến đánh giá trong điểm nhất định trong quá trình giá khi học. dạy học, đặc biệt là trước và sau khi dạy. 6. Kết quả - Năng lực người học phụ thuộc vào độ - Năng lực người học phụ đánh giá khó của nhiệm vụ hoặc bài tập đã hoàn thuộc vào số lượng câu hỏi, thành. nhiệm vụ hay bài tập đã hoàn thành. - Thực hiện được nhiệm vụ càng khó, - Càng đạt được nhiều đơn vị càng phức tạp hơn sẽ được coi là có kiến thức, kỹ năng thì càng năng lực cao hơn. được coi là có năng lực cao hơn. Thông tư 22 hướng dẫn về việc đánh giá học sinh tiểu học trong đó chú trọng việc đánh giá theo hướng phát triển năng lực và vì sự tiến bộ của học sinh. Cách đánh giá tích cực sẽ này giúp học sinh tự tin, hứng thú thúc đẩy phát triển học tập và nhân cách của học sinh tiểu học. Đánh giá học sinh không chỉ nhằm mục đích nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động của học sinh mà đồng thời tạo điều kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động của giáo viên. 2. Dạy học theo phương pháp dạy học tích cực Giáo viên dạy học theo phương pháp dạy học tích cực tức là phải huy động đông đảo học sinh tham gia hoạt động học tập; phải tổ chức, chỉ đạo cho học sinh tự tìm 9
  10. tòi, khám phá những điều mình chưa rõ chứ không phải thụ động tiếp thu những tri thức đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào tình huống của đời sống thực tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức, kĩ năng mới, vừa nắm được phương pháp “ làm ra” kiến thức, kĩ năng đó, vừa được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo giống như hoạt động nghiên cứu của các nhà khoa học trước đây tìm ra khái niệm mới (coi như các em tự tìm ra khái niệm mới đó dưới sự dẫn dắt của các thầy, mặc dù khái niệm đó đã được các nhà khoa học tìm ra trước đó). Dưới đây là bảng so sánh về phương pháp dạy học tích cực với phương pháp dạy học truyền thống: Phương pháp truyền thống Phương pháp dạy học tích cực Học là kiến tạo; học trò tìm tòi , Học là quá trình hấp thụ và lĩnh khám phá, phát hiện, tập luyện , hội, qua đó hình thành kiến khai khẩn và xử lí thông tin , tự thức, năng lực, tư tưởng, tình hình thành thông hiểu, năng lực Quan niệm cảm. và phẩm chất. Truyền thụ tri thức, truyền thụ Tổ chức hoạt động nhận thức và chứng minh chân lí của giáo biếu học trò. Dạy học trò cách tìm Bản chất viên. ra chân lí. Chú trọng hình thành các năng lực ( sáng tạo, hợp tác , ); dạy cách học. Học để đáp ứng Chú trọng cung cấp tri thức , những đề nghị của cuộc sống hiện năng lực, xảo thuật. Học để đối nay và tương lai. Những điều đã phó với thi cử. Sau khi thi xong học cần thiết , hữu ích cho bản những điều đã học thường bị bỏ thân học trò và cho sự phát triển Mục đích quên hoặc ít dùng đến. xã hội. Từ nhiều nguồn khác nhau: Sách giáo khoa, giáo viên, các tài liệu khoa học, thử nghiệm, thực tế : gắn với: - Vốn thông hiểu, kinh nghiệm và nhu cầu của HS. Nội dung Từ sách giáo khoa + giáo viên - Vốn thông hiểu, kinh nghiệm và 10
  11. nhu cầu của HS. - Những vấn đề học trò quan tâm. Các biện pháp tìm tòi, điều tra , Các biện pháp diễn giảng , giải quyết vấn đề ; dạy học tương Biện pháp truyền thụ tri thức một chiều. tác. Cơ động, linh hoạt, học ở lớp, ở Cố định, giới hạn trong 4 bức hiện trường , trong thực tế, học Hình thức tường của lớp học, giáo viên đối cá nhân, học theo cả nhóm , cả tổ chức diện với cả lớp. lớp. Nhìn vào sơ đồ khái quát dưới đây sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn về phương pháp dạy học tích cực và tại sao cần phải thay đổi phương pháp dạy học: III. THỰC TRẠNG TRONG VIỆC ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC 1. Nhận thức về đổi mới: Để điều tra thực trạng đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên, cuối năm học 2016 – 2017, tôi đã tiến hành điều tra nhận thức của 29 giáo viên bằng phiếu điều tra. *Nhận thức về tầm quan trong của việc đổi mới phương pháp dạy học Hỏi: Theo đồng chí, đổi mới phương pháp dạy học được Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục-Đàotạo quan tâm chỉ đạo ở ý kiến nào trong bảng sau: Hãy điền vào Là nhiệm vụ rất được quan tâm. Quan tâm nhưng chưa được xúc tiến. 11
  12. Rất quan tâm và đang tiến hành chỉ đạo ở toàn ngành Giáo dục - Đào tạo. Kết quả thu được cho thấy: 29/29 ý kiến cho rằng đổi mới phương pháp dạy học là một vấn đề cần thiết hiện nay, được Đảng và Nhà nước và Bộ Giáo dục - Đào tạo rất quan tâm và được đang tiến hành chỉ đạo toàn ngành thực hiện sâu rộng. * Nhận thức của giáo viên về cần thiết đổi mới phương pháp dạy học. Hỏi: Theo các đồng chí, có cần thiết đổi mới phương pháp dạy học không? Hãy điền dấu vào Rất cần. Cần. Không cần. Kết quả thu được: Rất cần : 18 = 62 % Cần : 11 = 38% Như vậy 100% giáo viên đã nhận thức được sự cần thiết của việc đổi mới về phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay. Điều đó xuất phát từ thực tế cuộc sống. Một xã hội hiện đại cần có những người có bản lĩnh, có năng lực chủ động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, thích ứng với đời sống xã hội đang từng ngày, từng giờ thay đổi. Thực tiễn này làm cho mục tiêu đào tạo của nhà trường phải điều chỉnh kéo theo sự thay đổi tất yếu của nội dung và phương pháp dạy học. Qua tìm hiểu về cách dạy lấy giáo viên làm trung tâm, hầu hết giáo viên đều nhận thấy những hạn chế của cách dạy này là: - Học sinh học thụ động nên tri thức tiếp thu được không bền vững. Tính thụ động lâu dần thành thói quen sẽ hạn chế trình độ tư duy và nhận thức. - Học sinh không được chuẩn bị đúng mức để hoạt động độc lập và sáng tạo, khó thích ứng với yêu cầu học tập cao hơn ở các lớp trên, càng khó thích ứng với hoạt động muôn màu, muôn vẻ của cuộc sống xã hội sau này. - Năng lực cá nhân của học sinh không có điều kiện bộc lộ và phát triển đầy đủ. 2. Thực trạng việc đổi mới phương pháp dạy học ở giáo viên Năm học 2016 - 2017, qua các tiết dự giờ, thăm lớp tôi nhận thấy số lượng giáo viên sử dụng các phương pháp dạy học hiện đại, lấy học sinh làm trung tâm như: nêu vấn đề, giải quyết vấn đề, bàn tay nặn bột chiếm tỉ lệ rất nhỏ, chủ yếu là những phương pháp truyền thống, giáo viên phải làm việc nhiều như giảng giải, thuyết trình, làm theo mẫu Cụ thể qua hội thi giáo viên giỏi cấp trường, tôi đã tổng hợp được như sau: Phương pháp sử dụng Số lượng GV/tiết dạy Tỉ lệ Vấn đáp 29/29 100% Đóng vai 10/29 34,4% Thuyết trình 25/29 86,2% 12
  13. Giảng giải 20/29 68,9% Thực hành, luyện tập 29/29 100% Nêu vấn đề 10/29 34,4% Trò chơi 10/29 34,4% Quan sát 13/29 44,8% Nhóm 15/29 51,7% Bàn tay nặn bột 3/29 10,3% Hay việc sử dụng các phương pháp cho từng môn học thiếu linh hoạt: Phương pháp dạy học của giáo viên Số tiết Môn học Thực Quan Trò Đóng Thuyết Vấn Nêu STT Nhóm BTNB dạy hành sát chơi vai trình đáp vấn đề 1 Toán 5/5 1/5 3/5 4/5 5/5 2/5 1/5 5 tiết 2 Tập đọc 4/4 2/4 1/5 1/4 4/4 4/4 1/4 4 tiết 3 LT& Câu 4/4 1/4 3/4 3/4 1/4 2/4 4 tiết 4 KH,TN 1/3 1/3 3/3 3/3 1/3 0 3 tiết 5 TL văn 2/2 1/2 2/2 2/2 2 tiết 6 Địa lý 1/1 1/1 1/1 1tiết Từ việc sử dụng những phương pháp dạy học người thầy là trung tâm, áp đặt kiến thức, kĩ năng theo một chiều như vậy, rất nhiều hạn chế nảy sinh sau tiết học: - Hiệu quả tiết dạy không cao. ( Kết quả khảo sát cho thấy tỉ lệ học sinh hiểu và vận dụng được kiến thức rất thấp.) - Học sinh rất thụ động chỉ biết làm theo yêu cầu của giáo viên, không biết phản hồi, không phát huy tính sáng tạo trong học tập. - Không có các điều kiện để học sinh rèn luyện, nâng cao năng lực, phẩm chất. - Hạn chế sự tương tác giữa giáo viên và học sinh nên không khí lớp học trầm lắng, học sinh mệt mỏi Nguyên nhân của thực trạng trên: - Vì điều kiện chủ quan - khách quan mà giáo viên không dành nhiều thời gian nghiên cứu sách bài dạy; ở các tiết dạy để dự giờ thăm lớp, thao giảng, chuyên đề, việc đánh giá xếp loại nhiều khi còn nể nang, ngại góp ý, xây dựng cho phương pháp dạy chưa hiệu quả. - Chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn chưa được coi trọng, nội dung chỉ mang tính chất triển khai kế hoạch. - Công tác quản lý chỉ đạo vẫn mang nặng nề hành chính, phong trào. - Các hình thức và phương pháp kiểm tra vẫn còn đơn điệu, chưa có tác dụng. 13
  14. - Cơ sở vật chất của nhà trường còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới. - Phụ huynh không ủng hộ, chỉ mong muốn giáo viên giảng nhiệt tình, con em họ ghi chép đầy đủ. - Cấu trúc nội dung sách giáo khoa chưa thể hiện được nội dung đổi mới. - Việc dạy các môn học, giáo viên chỉ coi trọng 2 môn Toán và Tiếng Việt. Thời gian dạy môn Toán, Tiếng Việt bị kéo dài, thời gian dạy một tiết các môn khác được co lại, bởi thế việc chuẩn bị cho các môn học đó ít được coi trọng dẫn đến phương pháp dạy học bị coi nhẹ và giáo viên dùng phương pháp truyền thống là nhanh gọn, hợp lý cho tiết dạy. Cũng chính vì thế mà các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh trong giờ học chưa đáp ứng được, chưa trở thành kỹ năng của bản thân giáo viên, nên việc nhận thức về chủ trương chính thì thấu suốt, nhưng thực hiện chưa hiệu quả. 3. Quản lý, chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học: Trong hoạt động quản lí và chỉ đạo, người quản lý thường hiểu và nắm chắc tất cả các thông tư, quy chế, quy định của ngành và Bộ Giáo dục. Với khối lượng công việc nhiều, đa dạng nên trong công tác chuyên môn, thường mang tính chỉ đạo, định hướng chung, chưa sát sao cụ thể, chi tiết phương pháp dạy ở từng khối lớp. Đôi khi xác định chưa rõ nét những biện pháp trọng yếu mang tính chất đổi mới. Như vậy, muốn duy trì và thúc đẩy chất lượng giáo dục thì người quản lý phải thực sự quan tâm đến mọi vấn đề có liên quan đến giáo dục, nhất là công tác đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường để đáp ứng những yêu cầu của nền giáo dục tiên tiến hiện nay. IV. NHỮNG BIỆN PHÁP CHỈ ĐẠO DẠY HỌC THEO PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC 1. Người quản lý phải thực sự chủ động, tiên phong trong việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh. Để chỉ đạo công tác đổi mới về phương pháp dạy học có hiệu quả trước hết người quản lí phải là người hiểu và làm tốt việc đổi mới phương pháp dạy học. Ngoài việc nắm chắc các văn bản về thông tư, chỉ thị, quy chế, quy định chỉ đạo từ cấp trên, người quản lý cần hiểu sâu rộng về mục đích và những yêu cầu về đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học sinh của Bộ giáo dục. Thường xuyên trau dồi, bồi dưỡng về phương pháp dạy học qua các chuyên đề của cấp trên, tự nghiên cứu, tìm hiểu qua các tài liệu, băng hình, qua các hội giảng, hội thi; thực hiện các chuyên đề, các tiết dạy bằng những phương pháp mới Tóm lại, người quản lý phải là người tiên phong trong đổi mới phương pháp dạy học cả về nhận thức cũng như trong giảng dạy. 2. Nghiên cứu, thảo luận, thống nhất về nội dung, cách thức sử dụng các phương pháp dạy học giúp học sinh phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo 14
  15. Đây là một giải pháp thực sự hiệu quả trong chỉ đạo đổi mới phương pháp. Nếu chỉ nêu chung chung mục đích, yêu cầu hay chỉ đạo mang tính lý thuyết thì sẽ không hiệu quả. Người quản lí phải thực sự vào cuộc cùng giáo viên nghiên cứu để hiểu rõ bản chất, đặc trưng của từng phương pháp dạy học thích hợp, phổ biến, rút kinh nghiệm và cùng thống nhất về nội dung và cách thức sử dụng các phương pháp đó sao cho đạt hiệu quả nhất. Tuy nhiên việc sử dụng các phương pháp cũng cần phù hợp với điều kiện về cơ sở vật chất, đối tượng học sinh và cả về năng lực của giáo viên trong nhà trường. Dưới đây là một số phương pháp dạy học đã được chúng tôi nghiên cứu, thống nhất ứng dụng vào các tiết dạy và đã có hiệu quả trong việc phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong năm học vừa qua: a) Phương pháp đặt vấn đề và giải quyết vấn đề Đây là phương pháp gắn với thực tiễn đời sống. Học sinh nghiên cứu, làm thí nghiệm phát hiện hay đặt ra và giải quyết những vấn đề gặp phải trong học tập. Phương pháp này rất thích hợp với môn Tự nhiên xã hội và môn Khoa học. Cấu trúc một bài học (hay một phần bài học) được dạy theo các phương phương pháp này như sau: *Đặt vấn đề: - Tạo tình huống có vấn đề. - Phát hiện, nhận dạng vấn đề nảy sinh. - Phát hiện vấn đề cần giải quyết. * Giải quyết vấn đề: - Đề xuất cách giải quyết; - Lập kế hoạch giải quyết - Thực hiện kế hoạch giải quyết * Kết luận: - Thảo luận kết quả và đánh giá; - Khẳng định hay bác bỏ giả thuyết nêu ra. - Phát biểu kết luận - Đề xuất vấn đề mới. Có bốn mức trình độ đặt vấn đề và giải quyết vấn đề: Mức 1: Giáo viên đặt vấn đề, nêu cách giải quyết vấn đề. Học sinh thực hiện cách giả quyết theo hướng dẫn của giáo viên. Giáo viên đánh giá kết quả làm việc của học sinh. Mức 2: Giáo viên nêu vấn đề, gợi ý để học sinh tìm ra cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá. Mức 3: Giáo viên cung cấp thông tin, tạo tình huống có vấn đề, học sinh phát hiện và xác định vấn đề nảy sinh, tự đề xuất các giả thuyết và lựa chọn giải pháp. Học sinh thực hiện cách giải quyết vấn đề. Giáo viên và học sinh cùng đánh giá. 15
  16. Mức 4: Học sinh tự lực phát hiện vấn đề nảy sinh trong hoàn cảnh của mình hoặc cộng đồng, lựa chọn vấn đề giải quyết. Học sinh giải quyết vấn đề, tự đánh giá chất lượng, hiệu quả, có ý kiến bổ sung cho giáo viên khi kết thúc. Tùy từng đối tượng học sinh mỗi lớp mà giáo viên chọn mức độ dạy phù hợp. b) Phương pháp Bàn tay nặn bột Phương pháp Bàn tay nặn bột được sử dụng nhiều trong những năm gần đây. Phương pháp này dựa trên thí nghiệm tìm tòi- nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học lớp 4,5 và phần tìm hiểu về tự nhiên ở môn TNXH lớp 1,2,3. Cũng như các phương pháp dạy học tích cực khác, Bàn tay nặn bột luôn coi học sinh là trung tâm của quá trình nhận thức, chính các em là người tìm ra câu trả lời và lĩnh hội kiến thức dưới sự giúp đỡ của giáo viên.Tiến trình tìm tòi nghiên cứu khoa học trong phương pháp BTNB là một vấn đề cốt lõi, quan trọng. Học sinh tiếp cận vấn đề đặt ra qua tình huống (câu hỏi lớn của bài học); nêu các giả thuyết, các nhận định ban đầu của mình, đề xuất và tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu; đối chiếu các nhận định (giả thuyết đặt ra ban đầu); đối chiếu cách làm thí nghiệm và kết quả với các nhóm khác; nếu không phù hợp học sinh phải quay lại điểm xuất phát, tiến hành lại các thí nghiệm như đề xuất của các nhóm khác để kiểm chứng; rút ra kết luận và giải thích cho vấn đề đặt ra ban đầu. Tiến trình dạy theo phương pháp bàn tay nặn bột: Bước 1: Tình huống xuất phát và câu hỏi nêu vấn đề - Là một tình huống do giáo viên chủ động đưa ra như là một cách dẫn nhập vào bài học - Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học. - Câu hỏi phải phù hợp với trình độ học sinh, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò của học sinh. - Giáo viên phải dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng. Bước 2: Bộc lộ quan niệm ban đầu của học sinh - Giáo viên khuyến khích học sinh nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật, hiện tưởng mới. - Giáo viên cho học sinh trình bày bằng nhiều hình thức: viết, vẽ, nói, . - Giáo viên không nhất thiết phải chú ý tới các quan niệm đúng, cần phải chú trọng đến các quan niệm sai. Bước 3: Đề xuất câu hỏi hay giả thuyết và thiết kế phương án thực nghiệm *Đề xuất câu hỏi - Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, giáo viên giúp học sinh đề xuất câu hỏi. - Giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp từ đó HS đặt câu hỏi liên quan đế bài học.àđể giúp học sinh so sánh * Đề xuất phương án thực nghiệm nghiên cứu 16
  17. - Từ những câu hỏi của học sinh, giáo viên nêu câu hỏi cho học sinh đề nghị các em đề xuất thực nghiệm để tìm ra câu trả lời cho các câu hỏi đó. - Giáo viên ghi chú lên bảng các đề xuất của học sinh để các ý kiến sau không trùng lặp. - Khuyến khích học sinh tự đánh giá ý kiến nhau hơn là ý kiến của giáo viên nhận xét. Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu - Quan sát tranh và mô hình và ưu tiên thực nghiệm trên vật thật - Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu, giáo viên giúp học sinh đề xuất câu hỏi. - Giáo viên cần khéo léo chọn lựa một số biểu tượng ban đầu khác biệt trong lớp từ đó HS đặt câu hỏi liên quan đế bài học.àđể giúp học sinh so sánh. Bước 5: Kết luận kiến thức mới c) Phương pháp hoạt động nhóm: Phương pháp này thích hợp cho tất cả các môn học và được ứng dụng rộng rãi nhất. Lớp học được chia thành từng nhóm nhỏ từ 2 - 4 hoặc 6 học sinh. Tùy mục đích, yêu cầu của vấn đề học tập, các nhóm được phân ngẫu nhiên hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi từng phần của tiết học, được giao cùng nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau. Mỗi nhóm tự bầu nhóm trưởng nếu thấy cần, trong nhóm cần phân công mỗi người một phần việc, mỗi thành viên đề phải làm việc tích cực, không ỷ lại vào bạn, biết giúp đỡ nhau làm việc trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của mỗi nhóm sẽ là kết quả chung của cả lớp. Để trình bày kết quả, có thể cử đại diện hoặc mỗi thành viên trình bày một phần nếu là nhiệm vụ khó, phức tạp. Phương pháp hoạt động nhóm có thể tiến hành: *Làm việc chung cả lớp: - Nêu vấn đề, xác định nhiệm vụ nhận thức; - Tổ chức các nhóm, giao nhiệm vụ; - Hướng dẫn cách làm việc trong nhóm. * Làm việc theo nhóm: - Phân công nhiệm vụ trong nhóm - Cá nhân làm việc độc lập rồi trao đổi hoặc tổ chức thảo luận trong nhóm. - Cử đại diện hoặc phân công trình bày kết quả theo nhóm. * Tổng kết trước lớp: - Các nhóm lần lượt báo cáo kết quả. - Thảo luận chung - Giáo viên tổng kết, đặt vấn đề cho bài tiếp theo. Phương pháp này giúp học sinh tương tác với nhau rất hiệu quả. Các thành viên có cơ hội chia sẻ những băn khoăn hay kinh nghiệm của bản thân cùng nhau xây 17
  18. dựng nhận thức mới. Bằng cách nói ra những điều mình đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra, thấy cần học hỏi thêm những gì Bài học là quá trình tự học hỏi, không phải là sự tiếp nhận thụ động của giáo viên. d) Phương pháp vấn đáp: Đây là phương pháp dạy học truyền thống, giáo viên thường sử dụng theo cách dạy: giáo viên đặt câu hỏi để học sinh trả lời. Ở phương pháp này nếu người giáo viên sử dụng phù hợp, sáng tạo sẽ phát huy rất tốt hiệu quả tiết dạy, đó là tạo điều kiện để học sinh có thể tranh luận với nhau và cả với giáo viên, qua đó học sinh lĩnh hội được nội dung bài học. Căn cứ vào tính chất của hoạt động nhận thức, người ta phân biệt các loại phương pháp vấn đáp: - Vấn đáp tái hiện: Giáo viên đặt câu hỏi chỉ yêu cầu học sinh nhớ lại kiến thức đã biết và dựa vào trí nhớ, không cần suy luận, được dùng khi cần đặt mối liên hệ giữa các kiến thức vừa mới học. Vấn đáp tái hiện không được xem là phương pháp có giá trị sư phạm vì học sinh thụ động trong tiếp thu kiến thức. - Vấn đáp giải thích minh họa: Nhằm mục đích làm sáng tỏ một đề tài nào đó, giáo viên lần lượt nêu ra những câu hỏi kèm theo những ví dụ minh họa để học sinh dễ hiểu, dễ nhớ. Phương pháp này đặc biệt có hiệu quả khi có sự hỗ trợ của các phương tiện nghe – nhìn, học sinh rất hứng thú với phương pháp này. - Vấn đáp tìm tòi: Giáo viên dùng một hệ thống câu hỏi được sắp xếp hợp lí để hướng học sinh từng bước phát hiện ra bản chất của sự vật, tính quy luật của hiện tượng đang tìm hiểu, kích thích sự ham muốn, hiểu biết. Giáo viên tổ chức trao đổi ý kiến - kể cả tranh luận - giữa thầy với cả lớp; giữa trò - trò nhằm giải quyết một vấn đề xác định. Đây có thể nói là cách dạy tối ưu nhất của phương pháp vấn đáp, giúp học sinh phát huy năng lực và tính sáng tạo trong học tập. e) Phương pháp đóng vai: Đóng vai là phương pháp tổ chức cho học sinh thực hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Phương pháp này được sử dụng hiệu quả với các môn học về kiến thức xã hội như Tiếng Việt, Địa lý- Lịch sử, Đạo đức Phương pháp này có những ưu điểm sau: - Học sinh được rèn luyện thực hành những kĩ năng ứng xử và bày tỏ thái độ trong môi trường an toàn trước khi thực hành trong thực tiễn. - Gây hứng thú và chú ý cho học sinh. - Tạo điều kiện làm nảy sinh óc sáng tạo cho học sinh. - Khích lệ sự thay đổi thái độ, hành vi của học sinh theo chuẩn mực. - Có thể thấy ngay tác động và hiệu quả của lời nói hoặc việc làm của các vai diễn. Cách tiến hành: - Giáo viên chia nhóm, giao tình huống; - Các nhóm thảo luận nội dung đóng vai; 18
  19. - Các nhóm thể hiện; - Lớp thảo luận, nhận xét về cách ứng xử của các vai diễn - Giáo viên kết luận về cách ứng xử cần thiết trong tình huống. Khi sử dụng phương pháp này cần chú ý: - Giành thời gian phù hợp cho các nhóm. - Người đóng vai cần phải hiểu rõ về vai của mình. - Khích lệ học sinh chưa mạnh dạn tham gia. g) Phương pháp động não: Là phương pháp giúp học sinh trong thời gian ngắn nảy sinh được nhiều ý tưởng, nhiều giả định về một vấn đề nào đó. Phương pháp này phù hợp với tất cả các môn học. Thực hiện phương pháp này, giáo viên cần đưa ra một hệ thống các thông tin làm tiền đề cho buổi thảo luận. Cách tiến hành: - Giáo viên nêu câu hỏi, vấn đề cần tìm hiểu trước lớp hoặc nhóm; - Khích lệ sự đóng góp của học sinh; - Liệt kê các ý kiến; - Phân loại ý kiến; - Làm sáng tỏ những ý kiến chưa rõ ràng và thảo luận sâu từng ý. h) Phương pháp quan sát: Quan sát là nhóm phương pháp chính, giáo viên thường sử dụng để thu thập dữ liệu trong đánh giá thường xuyên. Phương pháp này đã được thông tư 22 nhấn mạnh trong việc đánh giá thường xuyên. Đây là phương pháp rất có giá trị trong việc thúc đẩy phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh tiểu học. Quan sát đề cập đến việc theo dõi hoặc lắng nghe học sinh thực hiện các hoạt động ( quan sát quá trình) hoặc nhận xét một sản phẩm do học sinh làm ra (quan sát sản phẩm). Trong thời gian quan sát, giáo viên phải quan tâm đến những hành vi của học sinh như lúc làm bài tập, quan hệ tương tác trong nhóm, giơ tay phát biểu hay nộp bài hoặc sản phẩm. Một số quan sát được tiến hành chính thức và định trước như đọc bài trong nhóm hoặc trình bày bài trước lớp. Trong những tình huống như vậy giáo viên có thể quan sát một tập hợp hành vi ứng xử của học sinh. Các quan sát khác của giáo viên lại không được định sẵn và không chính thức trong những tình huống nảy sinh mới như nói chuyện thay vì thảo luận bài học, học sinh bị tổn thương do bạn trêu chọc , giáo viên phải ghi nhận và suy nghĩ diễn giải. Các quan sát chính thức và không chính thức của giáo viên đều là những kĩ thuật thu thập thông tin qua trọng trong lớp học. Thông thường trong quan sát, giáo viên có thể sử dụng ba loại công cụ để thu thập thông tin. Đó là: Ghi chép các sự kiện thường nhật. Thang đo và Bảng kiểm tra. 19
  20. 100% các giờ dạy ở tiểu học giáo viên đều sử dụng phương pháp này. i) Phương pháp trò chơi Bản chất của phương pháp là dạy học thông qua việc tổ chức trò chơi học tập cho học sinh. Mục đích của trò chơi là chuyển tải mục tiêu của bài học. Luật chơi (cách chơi) thể hiện nội dung và phương pháp học, đặc biệt là phương pháp học tập có sự hợp tác và sự tự đánh giá. Sử dụng trò chơi học tập để hình thành kiến thức, kỹ năng mới hoặc củng cố kiến thức, kỹ năng đã học. Trong thực tế dạy học, giáo viên thường tổ chức trò chơi học tập để củng cố kiến thức, kỹ năng. Tuy nhiên việc tổ chức cho học sinh chơi các trò chơi để hình thành kiến thức, kỹ năng mới là rất cần để tạo hứng thú học tập cho học sinh ngay từ khi bắt đầu bài học mới. Quy trình thực hiện Bước 1: Giáo viên giới thiệu tên, mục đích của trò chơi. Bước 2: Hướng dẫn chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau: - Tổ chức người tham gia trò chơi: Số người tham gia, số đội tham gia (mấy đội chơi), quản trò, trọng tài. - Các dụng cụ dùng để chơi (giấy khổ to, quân bài, thẻ từ, cờ ) - Cách chơi: Từng việc làm cụ thể của người chơi hoặc đội chơi, thời gian chơi, những điều người chơi không được làm - Cách xác nhận kết quả và cách tính điểm chơi, cách giải của cuộc chơi. (nếu có) Bước 3: Thực hiện trò chơi Bước 4: Nhận xét sau cuộc chơi. Bước này bao gồm những việc làm sau: 20
  21. - Giáo viên hoặc trọng tài là học sinh nhận xét về thái độ tham gia trò chơi của từng đội, những việc làm chưa tốt của các đội để rút kinh nghiệm. - Trọng tài công bố kết quả chơi của từng đội, cá nhân và trao phần thưởng cho đội đoạt giải. - Một số học sinh nêu kiến thức, kỹ năng trong bài học mà trò chơi đã thể hiện. Khi sử dụng phương pháp này, giáo viên cần chú ý một số điểm sau: - Mục đích của trò chơi phải thể hiện mục tiêu của bài học hoặc một phần của chương trình. - Hình thức chơi đa dạng giúp HS được thay đổi các hoạt động học tập trên lớp, giúp học sinh phối hợp các hoạt động trí tuệ với các hoạt động vận động. - Luật chơi đơn giản để học sinh dễ nhớ, dễ thực hiện. Cần đưa ra các cách chơi có nhiều học sinh tham gia để tăng cường kỹ năng học tập hợp tác. - Các dụng cụ chơi cần đơn giản, dễ làm hoặc dễ tìm kiếm tại chỗ - Chọn quản trò chơi có năng lực phù hợp với yêu cầu của trò chơi. - Tổ chức chơi vào thời gian thích hợp của bài học để vừa làm cho học sinh hứng thú học tập vừa hướng cho học sinh tiếp tục tập trung các nội dung khác của bài học một cách có hiệu quả. 3. Đổi mới cách soạn giáo án và chuẩn bị, sử dụng đồ dùng, thiết bị dạy học Việc soạn giáo án và chuẩn bị đồ dùng dạy học chiếm một thời lượng rất lớn đối với giáo viên. Đa phần giáo viên thường sử dụng bài soạn sẵn có từ năm này qua năm khác, soạn bài theo kiểu chống đối, dạy bằng kinh nghiệm và tài liệu là sách giáo khoa, giáo viên hầu như không sử dụng đến giáo án. Việc đổi mới phương pháp dạy phải bắt đầu từ việc soạn giáo án. Thấy rõ được điều đó, tôi đã có một số giải pháp để giáo viên áp dụng dần với một số môn học: - Đổi mới cách xác định mục tiêu bài học: Việc xác định mục tiêu bài học cần đảm bảo 2 yêu cầu cơ bản: + Định lượng được mức độ, chuẩn mực kiến thức, kỹ năng và thái độ học sinh phải đạt được sau bài học để thực hiện, đồng thời lấy đó làm căn cứ đánh giá kết quả bài học một cách khách quan, tránh tình trạng đánh giá cảm tính đối với một bài học. + Chú trọng mục tiêu xây dựng phương pháp học tập, đặc biệt là phương pháp tự học của học sinh. - Đổi mới cách soạn giáo án: + Chuyển trọng tâm từ thiết kế các hoạt động của thầy sang hoạt động của trò; + Là một bản kế hoạch trong đó mọi hoạt động đều được liệt kê theo một quy trình hợp lý và có sự phối kết hợp rất chặt chẽ các nguồn lực: người dạy, người học, sách giáo khoa, thiết bị dạy học ; + Cần dự tính các phương án và cách thức có thể tiến hành để kiểm soát chất lượng làm việc của học sinh. 21
  22. - Thường xuyên và linh hoạt trong việc sử dụng đồ dùng dạy học: Với điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học của nhà trường còn thiếu thốn, tôi đã chỉ đạo giáo viên sử dụng đồ dùng sẵn có sao cho linh hoạt: Tranh ảnh, đồ dùng của môn học này có thể sử dụng minh họa cho môn học khác; là vùng nông thôn miền núi, thiên nhiên phong phú nên học sinh chuẩn bị cho tiết học có sử dụng phương pháp bàn tay nặn bột, quan sát hay giải quyết vấn đề khá hiệu quả, các tiết học trở nên rất sinh động, cuốn hút, phát huy khả năng tìm tòi, sáng tạo của các em. - Tăng cường ứng dụng CNTT vào dạy học: Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học, phương tiện dạy học hiện đại đóng một vai trò hết sức quan trọng. Với sự hỗ trợ của máy tính và một số phần mềm dạy học, giáo viên có thể tổ chức tiết dạy một cách sinh động theo hướng tăng cường hoạt động tự chủ, độc lập giải quyết vấn đề của học sinh. Tuy nhiên với điều kiện của nhà trường số lượng máy tính, máy chiếu còn rất ít chưa đáp ứng được nhu cầu dạy- học thường xuyên, tôi đã lập kế hoạch phân công từng khối dạy bằng giáo án điện tử luân phiên sao cho mỗi giáo viên dạy được từ 8-10 tiết/năm học, ở những tiết hocjn này, học sinh học tập hứng thú hơn, chất lượng, hiệu quả tiết dạy tốt hơn và trình độ tin học của giáo viên dần được nâng lên . 4. Nâng cao nhận thức và bồi dưỡng chất lượng cho đội ngũ giáo viên trong nhà trường Ban giám hiệu và tập thể giáo viên trong nhà trường đoàn kết, thống nhất cao nhận thức về tính cấp thiết của đổi mới phương pháp dạy học. Phải hiểu được đây là một trong những yêu cầu cơ bản của “Đổi mới căn bản và toàn diện” giáo dục nước nhà. Là một thách thức, nhưng cũng là cơ hội phát triển của mỗi giáo viên và chất lượng giáo dục trong nhà trường. Bên cạnh đó, chất lượng đội ngũ giáo viên là điều kiện quan trọng quyết định đến hiệu quả việc giảng dạy theo phương pháp mới. Nhận thức sâu sắc về những điều đó, trong công tác chỉ đạo về chuyên môn, tôi đã có một số giải pháp sau: - Thông qua các hội nghị chuyên môn, hội giảng, chuyên đề, thi giáo viên giỏi, sinh hoạt chuyên môn tuyên truyền về ý nghĩa, hiệu quả của việc đổi mới phương pháp dạy học từ đó giúp giáo viên nâng cao nhận thức trong việc bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ của mình. - Tổ chức chuyên đề tìm hiểu về phương pháp dạy học tích cực, chuyên đề ứng dụng phương pháp dạy học tích cực vào các tiết dạy hàng ngày. Thực tế, rất ít giáo viên hiểu và nắm rõ được bản chất, đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực nên qua một số chuyên đề đã giúp ích rất nhiều cho giáo viên trong việc vận dụng giảng dạy hàng ngày. - Có những yêu cầu cụ thể về đổi mới phương pháp dạy học khi xây dựng các kế hoạch chuyên môn như thi giáo viên giỏi, thao giảng 22
  23. - Đánh giá, rút kinh nghiệm, góp ý cụ thể về việc sử dụng phương pháp dạy học sau mỗi tiết dạy chuyên đề, thao giảng, hội giảng, các tiết dự giờ và các buổi họp chuyên môn. - Tổ chức cho giáo viên dự giờ các tiết dạy đạt giải cao trong hội thi cấp trường, cấp huyện. “Trăm nghe không bằng một thấy” nên rất hiệu quả đối với những giáo viên kĩ năng sư phạm còn hạn chế. - Tổ chức cho giáo viên tham gia đầy đủ các lớp bồi dưỡng, chuyên đề do phòng, sở giáo dục tổ chức; viết thu hoạch, dạy thực nghiệm sau mỗi đợt bồi dưỡng. - Tổ chức chuyên đề về đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt tổ chuyên môn, tập trung thảo luận các phương pháp dạy phù hợp với từng môn, từng loại bài. Ban giám hiệu thường xuyên dự các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ để có những giải pháp chỉ đạo, tháo gỡ kịp thời. - Đổi mới phương pháp dạy học là tiêu chí xếp loại đánh giá chuẩn nghề nghiệp và xếp loại viên chức đối với giáo viên. 5. Kiểm tra, đánh giá các hoạt động đổi mới phương pháp dạy học Kiểm tra, đánh giá các hoạt động đổi mới phương pháp dạy học với nhiều hình thức khác nhau vừa có tác dụng điều chỉnh vừa có ý nghĩa thúc đẩy đối với chính quá trình này. - Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên phân công tham gia, theo dõi và điều chỉnh các hoạt động đổi mới thông qua vai trò của tổ trưởng, nhóm trưởng chuyên môn, đặc biệt thông qua việc tăng cường hoạt động của Thanh tra chuyên môn nhà trường. - Công tác kiểm tra, thanh tra chuyên môn được đổi mới theo hướng coi trọng chức năng phát hiện để phòng ngừa, điều chỉnh, tư vấn cho giáo viên hơn là chỉ tập trung truy tìm sai sót. - Kết hợp giữa đánh giá của cá nhân với đánh giá của tổ chuyên môn và của Ban giám hiệu để xác định những vấn đề chung cần giải quyết trong tình hình thực hiện đổi mới phương pháp trong tập thể tổ nhóm và mỗi giáo viên; mặt khác, đổi mới việc kiểm tra chuyên môn, thay lối kiểm tra hành chính thủ tục bằng coi trong kiểm tra hoạt động dạy học trên lớp của giáo viên và học sinh; - Đánh giá thi đua trên cơ sở chú trọng những tiêu chí, những quy định của nhà trường trong việc tham gia thực hiện đổi mới phương pháp của mỗi bộ phận, cá nhân. - Khuyến khích, động viên kịp thời các hoạt động đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả. 6. Tăng cường xây dựng điều kiện cho quá trình đổi mới phương pháp dạy học - Đa dạng hoá, tích cực hoá hoạt động bồi dưỡng giáo viên tại trường Giáo viên là người hiện thực hoá các phương pháp dạy học khi tiến hành các hoạt động dạy học ở trên lớp, đồng thời cũng là lực lượng quyết định sự thành bại của 23
  24. quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Bởi vậy, cần đẩy mạnh các hoạt động bồi dưỡng giáo viên ngay tại nhà trường. Cách làm có hiệu quả nhất là thông qua các hoạt động học tập, rèn luyện ở tổ nhóm, nhất là hoạt động thực hành các kỹ năng sư phạm theo hướng đổi mới trong giờ lên lớp hàng ngày là vấn đề cần được quan tâm tổ chức thường xuyên. Hiệu quả của các hoạt động thực hành đổi mới phương pháp dạy học cụ thể ấy là góp phần thiết thực vào việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ và nghiệp vụ sư phạm của đội ngũ giáo viên. Khi trình độ người giáo viên được nâng cao hơn thì quá trình đổi mới lại càng được tiến hành một cách chủ động, sáng tạo và có chất lượng hơn . - Tăng cường đầu tư xây dựng và khai thác thiết bị giáo dục. Muốn tổ chức quá trình đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả, cần coi trọng vai trò của các phương tiện dạy học. Đó là: + Hệ thống tài liệu học tập bao gồm sách giáo khoa, sách tham khảo cùng với các loại học liệu khác và hệ thống thiết bị dạy học phong phú, đa dạng. + Xây dựng và tăng cường nguồn lực sách cho Thư viện. + Kết hợp giữa đầu tư mua sắm thiết bị dạy học với huy động khả năng sáng tạo của đội ngũ giáo viên trong tự làm đồ dùng dạy học. + Tổ chức các hoạt động đa dạng và phong phú nhằm phát huy vai trò tác dụng của Thiết bị dạy học và Thư viện trường học. - Phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng trong và ngoài nhà trường Quản lý quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở trong nhà trường cần được tiến hành song song với việc tổ chức tốt hoạt động của các lực lượng nội bộ như giáo viên chủ nhiệm, Chi bộ, Công đoàn, Đoàn thanh niên, Đội thiếu niên và các lực lượng ngoài trường như Hội phụ huynh, Hội khuyến học Trên cơ sở đó, tạo ra mối quan hệ kết hợp khăng khít, chặt chẽ, nhằm xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh giúp học sinh phát triển về năng lực và phẩm chất tốt hơn. - Đổi mới công tác quản lý, chỉ đạo với hoạt động đổi mới phương pháp dạy học Xác định được đổi mới phương pháp dạy học là một quá trình và phải thực hiện thường xuyên không chỉ ở giáo viên mà cả trong công tác quản lí. Như vậy, việc xây dựng kế hoạch và chỉ đạo của cán bộ quản lí phải thể hiện rõ tính thường xuyên, tránh tình trạng mang tính phong trào, mỗi năm học 1-2 đợt thi đua; xây dựng các quy định phân cấp quản lý cho tổ chuyên môn để quản lý nền nếp và chất lượng các hoạt động đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường; tăng cường đầu tư tài chính cho các hoạt động dạy học, đặc biệt tạo mọi điều kiện để nâng cấp trang thiết bị cho các phòng học. 6. Nâng cao chất lượng đánh giá, rút kinh nghiệm - Đánh giá đúng, khách quan và cụ thể về những điểm mạnh, điểm yếu trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học của giáo viên và các tổ chuyên môn; có giải pháp cụ thể, phù hợp với những tồn tại. 24
  25. - Động viên khen thưởng kịp thời những giáo viên tâm huyết, nhiệt tình, sáng tạo và có những sáng kiến, tham luận có chất lượng cho phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường. - Kiểm tra, giúp đỡ thường xuyên những giáo viên còn hạn chế về năng lực chuyên môn, tạo điều kiện để giáo viên được bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ. V. KẾT QUẢ THỰC HIỆN Sau khi đề xuất và thực hiện một số biện pháp chỉ đạo dạy học theo phương pháp dạy học tích cực, tôi nhận thấy: - 100% giáo viên nhận thức sâu sắc hơn về ý nghĩa của việc đổi mới phương pháp dạy học. Chủ động tích cực trong việc học tập nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm, áp dụng tốt các kỹ thuật dạy học vào đổi mới phương pháp dạy học. - 100% các tiết thi giáo viên giỏi cấp trường, thao giảng định kì đều sử dụng giáo án điện tử, các phương pháp giáo viên sử dụng rất đa dạng, phù hợp giúp học sinh tự tin, tích cực, chủ động học tập, kĩ năng hợp tác và vận dụng thực tế của học sinh tiến bộ rất nhiều. Với các tiết dự giờ đột xuất, giáo viên đã chủ động và linh hoạt hơn khi chọn phương pháp dạy với cả bài hay theo từng đơn vị kiến thức. Hiệu quả tiết dạy cao hơn nên giáo viên rất tự tin, phấn khởi. - Khi dự giờ, giáo viên đã tích cực, thẳng thắn khi đánh giá, nhận xét tiết học; có nhiều ý kiến đóng góp hay, sáng tạo về phương pháp dạy. - Nhiều giáo viên đã soạn bài theo phương pháp đổi mới; linh hoạt, sáng tạo hơn trong sử dụng đồ dùng dạy học. - Hiệu quả các tiết dạy cao hơn ( qua khảo sát); các kĩ năng như hợp tác, giao tiếp, giải quyết vấn đề được rèn luyện thường xuyên nên học sinh tự tin, chủ động hơn trong học tập và các hoạt động. Tổng hợp kết quả thi giáo viên giỏi cấp trường năm học 2017 - 2018, đối chiếu với các bảng số liệu trước khi vận dụng sáng kiến, tôi thấy kết quả đã thay đổi rõ ràng. Cụ thể: Phương pháp Số lượng tiết/GV Tỉ lệ Vấn đáp 29/29 100% Đóng vai 19/29 65,5% Thuyết trình 13/29 44,8% Giảng giải 15/29 51,7% Thực hành, luyện tập 29/29 100% Nêu vấn đề 19/29 65,5% Trò chơi 25/29 86,2% Quan sát 22/29 75,8% Nhóm 29/29 100% Bàn tay nặn bột 11/29 37,9% 25
  26. Những phương pháp mà học sinh được hoạt động nhiều như Nêu vấn đề, Trò chơi, Quan sát, Bàn tay nặn bột được giáo viên chú trọng sử dụng ngày càng nhiều. Việc sử dụng các phương pháp dạy học cho các môn học đã linh hoạt hơn rất nhiều. Với các môn học Toán. Tiếng Việt giáo viên đã mạnh dạn sử dụng các phương pháp như Nêu vấn đề, trò chơi, Nhóm thay vì các phương pháp truyền thống: Phương pháp dạy học của giáo viên Số tiết STT Môn học Thực Quan Trò Đóng Thuyết Vấn Nêu BTN Nhóm dạy hành sát chơi vai trình đáp vấn đề B 1 Toán 5/5 3/5 4/5 1/5 1/5 3/5 3/5 5/5 5 tiết 2 Tập đọc 4/4 3/4 3/4 2/4 1/4 3/4 2/4 4/4 4 tiết 3 LT& Câu 3/4 2/4 2/4 1/4 2/4 1/4 1/4 4 tiết 4 KH, TNXH 4/5 4/5 3/5 1/5 3/5 3/5 3/5 5 tiết 5 Tập làm văn 2/2 2/2 1/2 1/2 1/2 1/2 1/2 1/2 2 tiết 6 Địa lý 1/1 1/1 1/1 1/1 1/1 1/1 1tiết Năm học 2017-2018, dưới sự chỉ đạo sát sao về công tác chuyên môn của Ban giám hiệu và sự cố gắng nỗ lực của giáo viên, nhà trường đã đạt được một số kết quả nổi bật sau: *Giáo viên: - 95% giờ dạy của giáo viên xếp loại tốt. ( Bao gồm Hội giảng, dự giờ định kì, dự giờ đột xuất, thanh tra cấp trên) - 29/29 giáo viên tham gia thi đạt giáo viên giỏi cấp trường. - 1 giáo viên đạt giải Nhì thi giáo viên giỏi cấp Huyện. *Học sinh: - 99,3% học sinh hoàn thành chương trình lớp học, 100% hoàn thành CTTH. - 26 học sinh đạt giải trong các cuộc thi cấp Huyện ( 3 giải xuất sắc, 5 giải Nhất, 6 giải Nhì, 5 giải Ba, 7 giải KK), 3 học sinh được chọn thi thành phố. 26
  27. PHẦN III KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ I. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Từ những kết quả thực tiễn trong việc chỉ đạo dạy học theo phương pháp dạy học tích cực, tôi rút ra một số bài học sau: 1. Để đổi mới hiệu quả phương pháp dạy học, trước hết phải coi trọng công tác bồi dưỡng đội ngũ giáo viên, tập trung giải quyết những bất cập, vướng mắc trong giảng dạy vì giáo viên là nhân tố chủ chốt quyết định đến chất lượng giáo dục trong nhà trường. 2. Trong các phương pháp dạy học, không có phương pháp nào là tối ưu nhất. Vì vậy, giáo viên phải linh hoạt sử dụng sao cho hợp lí, đúng lúc, đúng chỗ, phát huy tính năng tác dụng mặt tích cực của mỗi phương pháp đúng với đặc trưng môn học, loại bài, đơn vị kiến thức, điều kiện của học sinh , tránh rập khuôn, máy móc. 3. Về thiết kế bài dạy, giáo viên cần có kế hoạch rõ ràng, cụ thể về hoạt động của giáo viên – học sinh ( chủ yếu là hoạt động của học sinh), xác định rõ mục tiêu, nội dung kiến thức của bài học, nâng cao kĩ năng hợp tác, vận dụng thực tế cho học sinh giúp các em có thói quen tự học, tự tìm tòi nghiên cứu. 4. Tăng cường ứng dụng CNTT trong giảng dạy, thường xuyên kiểm tra việc thực hiện, chất lượng, hiệu quả của việc đổi mới phương pháp dạy học để khắc phục và bổ sung kịp thời những vướng mắc, hạn chế trong quá trình thực hiện. 5. Chỉ đạo giáo viên thực hiện hiệu quả việc đổi mới đánh giá học sinh theo thông tư 22, đánh giá vì sự tiến bộ của học sinh giúp các em phát triển năng lực học tập, phát triển nhân cách. 6. Phải thường xuyên nghiên cứu, học tập nâng cao trình độ năng lực quản lí, chuyên môn nghiệp vụ để ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. II. NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN HẠN CHẾ Trong quá trình triển khai áp dụng những giải pháp trên tại trường, tôi gặp một số khó khăn, hạn chế sau: 1. Nhà trường còn gặp nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc giảng dạy còn thiếu nên ảnh hưởng nhiều đến công tác giảng dạy. 2. Thiếu giáo viên giảng dạy nên việc bố trí chuyên môn gặp rất nhiều khó khăn. Một số giáo viên chưa nhiệt tình với việc đổi mới phương pháp dạy học. 3. Là vùng núi nên đời sống người dân còn gặp rất nhiều khó khăn, sự quan tâm đến học hành của con em cũng như nhận thức về đổi mới giáo dục còn nhiều hạn chế. 27
  28. III. MỘT SỐ NHỮNG KHUYẾN NGHỊ 1. Đối với nhà trường: a) Đối với người quản lý: Phải nhận thức đúng đắn, hiểu và quyết tâm trong chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học. b) Đối với giáo viên: Phải có sự cầu thị, tích cực bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ như: tự nghiên cứu, tham khảo tài liệu có liên quan đến đổi mới phương pháp dạy học, dự giờ, thực hiện chuyên đề Thường xuyên vận dụng các phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong dạy học. c) Tổ chuyên môn: Chỉ đạo tổ viên thực hiện tốt kế hoạch đề ra. Tổ chức nhiều tiết chuyên đề, trao đổi, rút kinh nghiệm, thống nhất phương pháp dạy phù hợp với từng môn học, loại bài. d) Với phụ huynh học sinh: Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi về chủ trương đổi mới phương pháp dạy học với cha mẹ học sinh, phối kết hợp với gia đình khuyến khích các em tự học, tự tìm tòi nghiên cứu. 2. Phòng Giáo dục: - Thường xuyên tổ chức chuyên đề, rút kinh nghiệm về đổi mới phương pháp trong dạy học. - Tập hợp các tiết dạy đạt giải cao ở các Hội thi GVG huyện, thành phố thành các video, phổ biến rộng rãi về các trường để giáo viên học tập. 3. Bộ và Sở Giáo dục - Đào tạo: Cần có đề án đổi mới về phương pháp dạy học, đặc biệt là đổi mới ngay từ các trường sư phạm và các cơ sở đào tạo. Trên đây là một số kinh nghiệm của tôi trong công tác chỉ đạo về chuyên môn trong năm học qua. Tôi hi vọng với những kinh nghiệm này sẽ giúp giáo viên có những kết quả giảng dạy tốt hơn và được các bạn đồng nghiệp nghiên cứu, bổ sung thêm cho công tác quản lý của mình. Do còn hạn chế về năng lực và điều kiện khách quan nên sáng kiến của tôi không tránh khỏi thiếu sót, tôi rất mong được sự đóng góp, bổ sung ý kiến của cấp trên và đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! Ba Vì, tháng 5 năm 2018 Tôi xin cam đoan sáng kiến kinh nghiệm trên là do chính tôi nghiên cứu và trình bày, không sao chép của người khác. Nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm. 28
  29. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học (Nhà xuất bản Giáo dục1996). 2. Dạy và học ngày nay (số 6,7,8 - Tạp chí của Trung ương Hội khuyến học Việt Nam). 3. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm (Nhà xuất bản Giáo dục 1994) 29