SKKN Tích hợp liên môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Văn hóa học, Sinh thái học trong bài đọc - Hiểu văn bản "Người lái đò Sông Đà" (Trích) của Nguyễn Tuân
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Tích hợp liên môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Văn hóa học, Sinh thái học trong bài đọc - Hiểu văn bản "Người lái đò Sông Đà" (Trích) của Nguyễn Tuân", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- skkn_tich_hop_lien_mon_ngu_van_lich_su_dia_li_van_hoa_hoc_si.pdf
Nội dung tóm tắt: SKKN Tích hợp liên môn Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí, Văn hóa học, Sinh thái học trong bài đọc - Hiểu văn bản "Người lái đò Sông Đà" (Trích) của Nguyễn Tuân
- nhưng thần Trụ Trời là người đã tách trời khỏi đất, làm nên sông hồ, núi non. Tiếp theo đó là những ông: ông tát bể, ông kể sao, ông trồng cây, ông xây rú. Những Ông ấy được tạo ra từ hình dáng con người và chính con người với sức lao động của mình- cả cơ bắp lẫn tư duy- đã tạo ra thế giới ấy. Trường ca anh hùng của người Mường Mo Đẻ đất đẻ nước rõ rệt, trọn vẹn hơn cả. Trong đó có lời kể về cả một quá trình sáng tạo vũ trụ, hình thành nên muôn loài, hình thành con người và xã hội loài người. Thời trung đại, con người chưa nhìn tự nhiên như một khách thể và mình là chủ thể. Đối với con người trung đại, tự nhiên là để tiêu dùng chứ không còn ý nghĩa nào khác. Bởi vì nông nghiệp là chủ yếu nên con người khai thác tự nhiên mà sống. Dần dần sau đó, con người thấy mình trong tự nhiên, bắt đầu từ thân thể. Người ta vẽ mắt vào đằng mũi thuyền để tránh đá ngầm, nước xoáy; hoa sen tượng trưng cho đức Phật; hay, cổ tay em trắng như ngà, con mắt em sắc như là dao cau, miệng cười như thể hoa ngâu, chiếc khăn đội đầu như thể hoa sen. Người ta nhìn thấy một phẩm chất nhất định và tốt đẹp ở sự vật và bản thân mình cũng có phẩm chất ấy nên gán luôn cho cảnh vật: phẩm chất kiên cường, bất chấp gian nan, thử thách ở cây tùng cây bách tuế hàn nhi tri rùng bách chi hậu điêu. Trong quá trình tiến hóa của xã hội tự nhiên thì việc xuất hiện của con người được xem là một kết quả của quá trình phát triển vượt bậc. Con người là một động vật bậc cao với sự phát triển hoàn chỉnh của bộ não và đôi tay được xem là một thành tựu. Cùng với sự phát triển đó của con người thì rất nhiều quan niệm khác về con người ra đời. Trong lao động sản xuất, con người không nắm bắt được những quy luật của hiện tượng tự nhiên mà chỉ có thể dự báo dựa trên những kinh nghiệm của mình là chủ yếu trăng quầng trời hạn trăng tán trời mưa, ráng mỡ gà có nhà thì giữ hay tôm đi chạng vạng, cá đi rạng đông Lúc bấy giờ, thiên nhiên với con người vẫn là điều bí ẩn. Trước những hiện tượng thiên nhiên mà họ không thể chống chọi hoặc lí giải được thì họ lại thần thánh hóa nó lên và gắn cho nó một sự tích hay một hình tượng nào đó để thờ cúng như Sơn Tinh Thủy Tinh gắn với hiện tượng lũ lụt hằng năm; thủy triều lên xuống với họ là thần biển đang hít thở; sấm chớp mây mưa đều do các thần tạo ra. Như vậy, thiên nhiên là nguồn cung cấp, nuôi dưỡng sự sống cho họ nhưng đồng thời cũng là kẻ thù mà họ chưa thể chống chọi lại được. 27
- Nghề nông nghiệp lúa nướcdiễn tiến theo từng giai đoạn nhỏ nhưng phải hội tụ thành làng là một tất yếu tự nhiên xã hội, bởi nông nghiệp lúa nước phải gắn liền với trị thủy. Mà vấn đề trị thủy phải đòi hỏi sức mạnh của cộng đồng mới có thể xây dựng hệ thống mương, đập chống hạn, đắp đê ngăn lụt. Như vậy, trong mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên thì đã bắt đầu xuất hiện khát vọng chinh phục tự nhiên và bước đầu họ đã tiến hành thực hiện nó. Kinh tế nông nghiệp Việt Nam không chỉ đơn thuần có cây lúa mà còn có rất nhiều loại cây hoa màu khác cho củ, quả, hạt cây lâu năm ăn trái và chăn nuôi gia súc, gia cầm. Nền tảng kinh tế ấy dĩ nhiên phụ thuộc nặng nề vào tự nhiên. Nghề nông gắn liền với trị thủy. Vấn đề trị thủy không giới hạn trong mỗi làng mà còn yêu cầu sức mạnh liên kết giữa các làng, vùng, miền. Và cứ thế, con người tất yếu phải cư trú thành làng. Thế nhưng làng không thể mở rộng không gian cư trú vô hạn định, bởi nó chịu sự chi phối của nhiều yếu tố như phạm vi đất canh tác, điều kiện địa lí tự nhiên . . . Có thể nói, văn hóa nông nghiệp lúa nước là nền văn hóa nhào nặn giữa Đất và Nước. Trường tồn trong lịch sử văn hóa Việt Nam đã diễn ra như thế. Mở đầu từ châu thổ sông Hồng, sông Mã khi nước biển bắt đầu rút dần thì con người tràn xuống trung du, đồng bằng tụ cư, khai phá đất đai, phát triển nghề lúa nước. Con người lúc này phải thường xuyên đối mặt với sự tấn công của thú dữ, lũ lụt, hạn hán và các thế lực ngoại xâm. Và trong quá trình chống chọi lại những thế lực đó tính cách con người hình thành. Có thể thấy rằng, văn hóa của con người trồng cấy Việt Nam là cái bản lĩnh biết nhu- cương, biết công biết thủ, biết trông trời trông đất trông mây, Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm rồi tùy thời mà làm ăn theo chuẩn mực nhất thì nhì thục ấy là khả năng ứng biến của con người Việt Nam, của lối sống Việt Nam, văn hóa Việt Nam. Trong quan hệ với tự nhiên, con người tận dụng triệt để môi trường tự nhiên để duy trì sự sống, để chống lại các thế lực ngoại xâm. Nếu như nhiều dân tộc coi ăn uống là chuyện tầm thường không đáng nói thì người Việt coi rất thiết thực, thậm chí công khai cho rằng có thực mới vực được đạo, nó quan trọng đến mức trời đánh còn tránh bữa ăn. Ngay cả khi tính thời gian cũng lấy ăn uống và cây trồng làm đơn vị: làm gì nhanh thì trong khoảng giập bã trầu lâu hơn thì chín nồi cơm, còn kéo dài lâu nữa thì tới hai mùa lúa Trong cơ cấu bữa ăn của người Việt cũng in đậm bản sắc lúa nước của mình. 28
- Không thể thiếu là cơm, cà, dưa, rau rồi mới đến thịt. Cả trong phương thức ăn cũng thể hiện tính cộng đồng rất rõ-quây quần cả nhà bên nhau ăn uống vui vẻ. Trong việc ứng phó với môi trường tự nhiên, thể hiện rõ nhất qua việc mặc. Việc mặc giúp con người ứng phó với cái nóng, rét, mưa, gió. Nhân dân ta đã nói một cách đơn giản: “được bụng no, còn lo ấm cật”. Vì vậy, cũng như trong chuyện ăn, quan niệm về mặc của người Việt Nam cũng là một quan niệm rất thiết thực ăn chắc mặc bền . . . Nhưng mặc không chỉ để ứng phó với môi trường tự nhiên mà còn có ý nghĩa xã hội rất quan trọng quen sợ dạ, lạ sợ áo. Mặc trở thành mục đích để trang điểm, làm đẹp người đẹp vì lụa lúa tốt vì phân, mặc giúp con người khắc phục những nhược điểm về tuổi tác cau già khéo bổ thì non, nạ dòng trang điểm lại giòn hơn xưa. Ở xã hội Việt Nam cổ truyền, bản chất của nông nghiệp là sống định cư nên con người ít di chuyển. Có đi thì cũng đi rất gần. Hoạt động chủ yếu của con người nông nghiệp Việt Nam là đi từ nhà ra ruộng, lên nương. Việt Nam là vùng sông nước, kênh mương chằng chịt và bờ biển dài. Bởi vậy, vấn đề đi lại từ ngàn xưa chủ yếu là đường thủy; và người Việt xưa giỏi bơi lặn, thạo thủy chiến, giỏi dùng thuyền. Sông ngòi phong phú thuận tiện cho giao thông đường thủy phát triển lại gây khó khăn cho giao thông đường bộ. Vì vậy Việt Nam hay có những cầu tre, cầu dừa, cầu dây . . . chính vì thế mà hình ảnh sông nước ăn sâu vào tâm thức của người Việt Nam chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo, ăn cỗ đi trước lội nước theo sau, thuyền theo lái gái theo chồng. Người Việt hay nói chìm đắm trong suy tư, thời gian trôi nhanh, ăn nói trôi chảy, thân bọt bèo. Ngay cả khi đi bộ cũng nói theo kiểu đi trên sông: lặn lội đến thăm nhau, quá giang. Những người sống bằng nghề sông nước thường lấy ngay thuyền, bè làm nhà ở. Nhiều gia đình quần tụ lập nên xóm chài, làng chài. Ấn tượng với thiên nhiên sông nước mạnh đến nỗi nhà của người Việt thường được làm với chiếc mái cong mô phỏng hình thuyền. Chiếc mái cong ngoài hình ảnh con thuyền không có tác dụng thực tế gì cho nên về sau người bình dân thường làm thẳng cho giản dị, chỉ có những công trình kiến trúc lớn mới làm mái cong cầu kì. Bên cạnh việc xây nhà thì chọn hướng nhà cũng là cách tận dụng tối đa thế mạnh của môi trường tự nhiên để ứng phó với nó. Hướng nhà tiêu biểu là 29
- hướng nam- vừa tránh được cái nóng từ phía tây, cái bão từ phía đông, gió từ phía bắc và tận dụng gió mát từ phía Nam: gió Nam chưa nằm đã ngáy hay cất nhà quay cửa vô Nam, quay lưng về chướng không làm cũng có ăn. Ngoài ra người Việt cũng rất quan tâm đến việc chọn hàng xóm láng giềng. Đến thời kinh tế hàng hóa phát triển, người Việt còn chú ý chọn vị trí giao thông thuận tiện nhất cận thị, nhị cận giang những đô thị có tốc độ phát triển nhanh đều là những đô thị gần biển, sông thuận tiện giao thông. Con người thời đại này quan niệm thiên, địa, nhân nhất thể “thiên thời địa lợi nhân hòa”. Con người, trời dất đều có cấu trúc âm-dương, có chung một cấu trúc vật chất. Nếu trời đất vận hành theo qui luật âm- dương hài hòa, ngũ hành biến hóa thì con người cũng vận hành theo qui luật đó. Sự biến chuyển của vật chất là một quá trình cuối cùng trở về lại cái ban đầu: thủy sinh mộc, mộc sinh hỏa, hỏa sinh thổ, thổ sinh kim, kim sinh thủy, thủy sinh mộc. Cứ như vậy vật chất biến hóa theo chu kì. Quan niệm đó dẫn đến lối giải thích duy tâm: mọi tài năng của con người đều do trời phú mà có. Nhìn chung, con người đặt trong mối quan hệ với thiên nhiên là một quan hệ gắn bó không thể tách rời. Thiên nhiên nuôi sống con người, giúp con người chống lại những thế lực ngoại xâm nhưng thiên nhiên cũng là thế lực mà con người phải chống đỡ. Trong giai đọan trung đại Việt Nam, đối với con người thiên nhiên là một lực lượng siêu nhiên, thần thánh và con người cũng đã có những lúc run sợ trước những thế lực đó. Nhưng dần dần họ đã tìm ra nhiều cách để chinh phục thiên nhiên để phục vụ cho đời sống của mình. Cũng như những loài linh trưởng khác, con người là một sinh vật xã hội, sống bầy đàn. Hơn thế nữa, con người cũng rất thành thạo việc sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, để biểu lộ những ý kiến riêng của mình và trao đổi thông tin. Con người tạo ra những xã hội phức tạp trong đó có những nhóm hỗ trợ nhau và đối nghịch nhau ở từng mức độ, có thể từ những cá nhân trong gia đình cho đến những quốc gia rộng lớn. Giao tiếp xã hội giữa con người và con người đã góp phần tạo nên những truyền thống, nghi thức, quy tắc đạo đức, giá trị, chuẩn mực xã hội và cả luật pháp. Tất cả cùng nhau tạo nên những nền tảng của xã hội loài người. Con người cũng rất chú ý đến cái đẹp và thẩm mỹ, cùng với nhu cầu muốn bày tỏ mình, đã tạo nên những sự đổi với về văn hóa như nghệ thuật văn chương và âm nhạc. Con người cũng được chú ý ở bản năng muốn tìm hiểu mọi thứ và điều khiển tự nhiên xung quanh, tìm hiểu những lời giải thích hợp lí cho những 30
- hiện tượng thiên nhiên qua khoa học, tôn giáo, tâm lý và thần thoại. Bản năng tò mò đó đã giúp con người tạo ra những công cụ và học được những kĩ năng mới. Trong giới tự nhiên, con người là loài duy nhất có thể tạo ra lửa, nấu thức ăn, tự may quần áo, và sử dụng các công nghệ kỹ thuật trong đời sống. Thực tế khoa học và đời sống đã chứng minh rằng con người hoàn toàn có khả năng ching phục thiên nhiên. Các công trình thủy điện của Việt Nam, nhất là công trình thủy điện Hòa Bình chính là thành công của con người trong việc chinh phục, chế ngự thiên nhiên. Công trình thủy điện Hòa Bình góp phần quan trọng vào việc phòng chống lũ lụt cho vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng trong đó có thủ đô Hà Nội. Nhà máy thủy điện Hòa Bình là nguồn cung cấp điện chủ lực của toàn bộ hệ thống điện Việt Nam. Năm 1994, cùng với việc khánh thành nhà máy và tiến hành xây dựng đường dây 500KV Bắc - Nam từ Hòa Bình tới trạm Phú Lâm (Thành phố Hồ Chí Minh) hình thành một mạng lưới điện quốc gia. Công trình này góp phần đắc lực trong việc cung cấp nguồn điện cho miền Nam và miền trung Việt Nam. Hơn nữa, đập thủy điện Hòa Bình đóng vai trò quan trọng vào việc cung cấp nước tưới cho sản xuất nông nghiệp ở vùng hạ lưu trong đó có đồng bằng sông Hồng, nhất là trong mùa khô; điều tiết mực nước sông đồng thời đẩy nước mặn ra xa các cửa sông. Đồng thời, thủy điện sông Đà còn giúp chúng ta cải thiện việc đi lại bằng đường thủy ở cả thượng lưu và hạ lưu. Năm 2004 công trình tượng đài chiến thắng Điện Biên Phủ được vận chuyển chủ yếu bằng con đường này. Tiến bộ khoa học cùng với việc phát minh các công nghệ mới trong thế kỷ XX đã cho ra đời nhiều ứng dụng hầu thỏa mãn nhu cầu mà con người cần đến hay nghĩ đến. Con người ngày càng chìm đắm trong những khám phá mới, tìm thêm nhu cầu mới, dù cần thiết hay không cần thiết cho cuộc sống. Cuộc chạy đua do chính con người đặt ra dường như không có điểm đến! Và hơn nữa, cuộc đua này càng kích thích thêm tham vọng ngự trị của con người. Với các khả năng khoa học hiện có, con người hầu như làm chủ thiên nhiên trong việc chế tạo các sản phẩm mới để tăng thêm nhu cầu và thị hiếu của nhân loại. Song đôi khi những nhu cầu đó có lẽ không cần thiết và vô ích, nếu không nói là làm thoái hóa thêm quá trình phát triển của con người cũng như huỷ hoại tài nguyên thiên nhiên và công sức con người một cách phí phạm. 31
- Sự cân bằng của vạn vật đã được sắp xếp theo một thứ tự nào đó của thiên nhiên. Từ ngàn năm trước nếu nhìn lại, khi khoa học chưa phát triển nhiều và con người có một hiểu biết rất hạn chế, thiên nhiên vẫn ưu đãi và tạo dựng ra một đời sống tương đối an lành cho con người. Số mầm bệnh không nhiều so với hiện tại, và sự xuất hiện những mầm bệnh mới chính là sản phẩm mặt trái của khoa học và con người. Con người đã lạm dụng khoa học, và với mặc cảm tự tôn, họ tin rằng sẽ chiến thắng được thiên nhiên, kiểm soát thiên nhiên, và luôn cố gắng thỏa mãn lòng kiêu hãnh của mình qua việc chinh phục thiên nhiên. Tuy nhiên, chúng ta thấy sau cùng, thiên nhiên đã đáp lại rằng, hãy còn quá nhiều ẩn số mà con người chưa thể giải đáp được! Thiên nhiên đã vận hành tuần hoàn, có chu kỳ thời tiết mưa, nắng, bão, lụt cho từng khu vực trước kia; nhưng hôm nay, con người đã làm đão lộn các chu kỳ trên một cách không kiểm soát nổi, và hiện tượng hâm nóng toàn cầu và hiệu ứng nhà kính là hai hậu quả trước mắt mà con người phải gánh chịu qua suy nghĩ làm chủ thiên nhiên của mình. Hiện tựơng hạn hán, bão lụt xảy ra thường xuyên hơn không còn theo một chu kỳ tuần hoàn nào có thể tiên liệu như trước kia cách đây vài thập niên nữa. Bầu khí quyển tiếp tục nóng dần và có khuynh hướng tăng trưởng nhanh hơn theo thời gian. El Nino là hiện tượng nước biển bị hâm nóng theo chu kỳ tự nhiên khoảng tám đến mười năm vào các thập niên trước; nay chu kỳ trên đã bị thu ngắn lại còn khoảng 4- 5 năm và không có những dấu hiệu báo trước rõ ràng như xưa nữa. Tóm lại, con người càng thách thức thiên nhiên càng phải gánh thêm nhiều hậu quả không thể lường trước đựơc! Có thể nói, cuộc thách thức giữa con người và thiên nhiên ngày càng gay gắt, và nếu không kịp điều chỉnh đúng mức và như con đường chúng ta đang đi hiện nay, chúng ta có thể sẽ đi vào ngõ cụt. Vì thiên nhiên hay môi trường sống của con người tự nó đã được sắp xếp theo một hợp lý nào đó và còn quá nhiều ẩn số mà con người chưa đủ khả năng để lý giải thì làm sao có khả năng để hàng phục thiên nhiên được. Do đó, càng vận dụng khả năng và trí thông minh của mình để thách đố, khiêu khích thiên nhiên, con người càng không thể tìm lối ra trong an bình được. Đúng như Các-Mác nói: càng chinh phục thiên nhiên thì thiên nhiên càng trả thù, ngày nay, con người đang đi gần đến chỗ bế tắc hơn nữa khi tìm cách giải quyết những vấn nạn môi sinh trên thế giới do chính con người tạo ra như : bầu khí quyển bị ô nhiễm đến mức báo động; nguồn nước sinh hoạt bắt đầu cạn kiệt về lượng cũng như không còn 32
- trong lành về phẩm như xưa nữa; và vùng đất sinh sống của con người ngày ngày càng bị thu hẹp do ô nhiễm, sa mạc hóa, sự chai đất v.v Tuy nhiên, nếu chúng ta cùng nhìn vào một bước tích cực, chúng ta vẫn còn có lối ra hay một giải pháp nếu chúng ta biết suy nghĩ lại. Do đó, ngày nay , chúng ta nên hiểu cho đúng về vấn đề chinh phục thiên nhiên. Công việc này quả là một nan đề cho bất cứ nhà khoa học nào có lương tâm và có một tầm nhìn đúng đắn về dự phóng tương lai. Trong thiên niên kỷ thứ ba này, nhiệm vụ chính yếu của các nhà làm khoa học trên thế giới là: tập trung trí tuệ để bảo vệ và tái tạo sự tuần hoàn nguyên thủy của thiên nhiên, như hạn chế việc thiết lập thêm và phá huỷ các đập thuỷ điện hiện có để duy trì hệ sinh thái thiên nhiên trong vùng; nghiên cứu những công nghệ sạch để thay thế nguồn các năng lượng đang xử dụng hiện tại, như dùng năng lượng tái tạo hay năng lượng mặt trời, gió, hoặc biến cải năng lượng từ than nhiệt điện bằng phương pháp biến than đá thành khí và từ đó tạo ra năng lượng; truy tìm các giải pháp thiên nhiên để giải quyết vấn nạn ô nhiễm trên thế giới như dùng cây cỏ để hấp thụ hoá chất độc hại do con người thải ra trong đất và nước do phát triển kỹ nghệ. Nếu ý thức được những bổn phận và trách nhiệm trên mỗi người trong chúng ta sẽ biết gìn giữ và bảo vệ môi trường sống chung quanh mình, đó là một phương cách an toàn và nhân bản nhất để có một cuộc hành trình tốt đẹp và an bình nhất trong thiên kỷ thứ ba. Và hơn nữa, có làm được như thế, chúng ta mới hoàn trả lại một phần nào món nợ mà chúng ta đã vay mượn trước của các thế hệ sau do việc đã làm suy thoái môi trường và phí phạm tài nguyên trong quá trình phát triển kỹ nghệ để giải quyết nhu cầu của con người trong suốt thời gian qua Mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên và công cuộc chinh phục thiên nhiên của loài người sẽ luôn là vấn đề để chúng ta quan tâm, suy ngẫm và tìm cách giải quyết hợp lí, hiệu quả. 33
- Sản phẩm của nhóm 4 Câu hỏi: Sưu tầm tranh ảnh về Sông Đà Trả lời: C¶nh S«ng §µ Cảnh bờ sông hùng vĩ, hiểm trở. 34
- Ghềnh sông dữ dội Thác nước hung dữ. 35
- §Ëp thuû ®iÖn s«ng §µ, Hoµ B×nh Thuû ®iÖn Hoµ B×nh Người soạn: Nguyễn Thị Hồng Liên Tổ Ngữ văn- Trường THPT chuyên Lương Văn Tụy- Ninh Bình. 36
- BÁO CÁO TÓM TẮT SÁNG KIẾN NĂM HỌC 2013-2014 Tên sáng Tác giả Giải pháp cũ Giải pháp mới cải Hiệu quả giảng dạy Khả năng kiến thường làm tiến áp dụng Tích Nguyễn Trước đây, khi Bài dạy có sự tích Qua bài học, HS sẽ Đối tượng áp hợp liên Thị hướng dẫn HS hợp kiến thức liên hiểu về đặc trưng của dụng là HS môn Hồng Ngữ Liên, tìm hiểu trích môn. GV tổ chức giờ thể, rèn luyện kĩ năng THPT, lớp văn, Tổ Ngữ đoạn tùy bút dạy theo sự kết hợp tìm hiểu một văn bản 12, lớp học Lịch sử, Văn , này, vì chưa chú giữa các phương tùy bút; biết vận Địa lí, Trường có khoảng từ ý tới tính đặc pháp: đọc tái hiện, dụng sáng tạo những Văn hóa THPT 30 đến 35 em học, chuyên trưng về thể loại; nêu vấn đề, gợi tìm, kiến thức, kĩ năng đã Sinh Lương đồng thời chưa đàm thoại, trao đổi học vào thực tiễn Các em có thái học Văn chú ý vận dụng thảo luận nhón, kết cuộc sống, trong niềm say mê, trong Tụy, bài đọc- Ninh kết hợp kiến hợp với diễn giảng nhiều tình huống mà yêu thích học hiểu văn Bình. thức của các thuyết trình. Qua bài các em sẽ gặp sau môn học, có bản môn học, ngành học, giúp HS nắm này;có những nhận Người hứng thú lái đò học khác nên được: Vài nét về tác thức sâu sắc về hiện khám phá vẻ Sông Đà hạn chế của bài giả Nguyễn Tuân và thực cuộc sống, biết ( trích) học là chúng tôi tùy bút Người lái đò yêu, bảo vệ và chung đẹp của tác của chưa giúp HS: Sông Đà. Vận dụng sống hòa bình với phẩm văn Nguyễn Tuân. Biết vận dụng kiến thức đa ngành, thiên nhiên có thái độ chương . HS sáng tạo những bằng câu chữ điêu thân thiện với tự đã được trang kiến thức, kĩ luyện, nghệ thuật nhiên, không khai bị vốn kiến năng đã học vào nhân hóa, so sánh, thác cạn kiệt dẫn đến thức phong thực tiễn cuộc mạch liên tưởng đa tàn phá tự nhiên; phát sống, trong chiều tài hoa, uyên huy được năng lực phú, có hệ thống ở nhiều nhiều tình huống bác , Nguyễn Tuân vận dụng kiến thức mà các em sẽ đã làm hiện hình liên môn, tích hợp môn khoa gặp sau này;có Sông Đà vừa hung kiến thức để khám học khác những nhận thức bạo vừa trữ tình; có phá chiều sâu tư nhau, đủ khả sâu sắc về hiện lúc tưởng như mang tưởng và vẻ đẹp của năng để tiếp thực cuộc sống, diện mạo, tâm địa của một tác phẩm văn biết yêu, bảo vệ một thứ kẻ thù số một chương, kết hợp tri nhận dự án dạy học. và chung sống với con người nhưng thức của nhiều lĩnh 37
- hòa bình với thực ra lại luôn hòa vực khác nhau nhằm Ngoài các tiết thiên nhiên; có hợp trong mối quan giải quyết những vấn học theo thái độ thân hệ với con người. Từ đề mang tính phức Phân phối thiện với tự đó HS thấy được nét hợp. Trong tiết Tự chương trình, nhiên, không đặc sắc chủ yếu trong chọn, GV tổ chức HS có thêm khai thác cạn nghệ thuật tùy bút kiểm tra đánh giá kết tiết học Tự kiệt dẫn đến tàn của Nguyễn Tuân; quả học tập của phá tự nhiên. biết vận dụng sáng HS.HS đã thực hiện chọn, đó là tạo những kiến thức, tốtcác bài tập nhằm một thuận lợi kĩ năng đã học vào phát triển năng lực, để GV và HS thực tiễn cuộc sống, định hướng năng lực có thể thực trong nhiều tình xã hội, năng lực cá hiện các bài huống mà các em sẽ thể, các em đã được tập nhằm gặp sau này; có trang bị kĩ hơn nhiều những nhận thức sâu kiến thức về văn học; phát triển sắc về hiện thực cuộc có khả năng tiếp nhận năng lực, sống, biết yêu, bảo vệ những vấn đề sâu sắc, định hướng và chung sống hòa có ý nghĩa về cuộc năng lực xã bình với thiên nhiên; sống, con người và hội, năng lực có thái độ thân thiện nghệ thuật; có năng cá thể. với tự nhiên, không lực, kĩ năng đọc - khai thác cạn kiệt dẫn hiểu các văn bản văn đến tàn phá tự nhiên; chương. Trong các phát huy được năng bài kiểm tra, tôi ra đề lực vận dụng kiến về trích đoạn này, đa thức liên môn để số các em đều đạt yêu khám phá chiều sâu cầu, có nhiều bài đạt tư tưởng và vẻ đẹp điểm khá, giỏi, có của một tác phẩm văn những bài viết rất chương, kết hợp tri sáng tạo, giàu cảm thức của nhiều lĩnh xúc. vực nhằm giải quyết những vấn đề mang tính phức hợp. 38