Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học Hóa học Trung học Cơ sở

doc 25 trang thulinhhd34 13313
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học Hóa học Trung học Cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_so_do_tu_duy_trong_day_hoc_hoa.doc

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy – học Hóa học Trung học Cơ sở

  1. Giáo viên dạy môn Hóa học và học sinh các khối 8,9 Trường THCS Hoàng Lâu – huyện Tam Dương – tỉnh Vĩnh Phúc. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử. Từ ngày 01 tháng 02 năm 2018 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 1.Lý do chọn đề tài: Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả nó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Nó được coi là sự lựa chọn cho toàn bộ trí óc hướng tới lối suy nghĩ mạch lạc. Giáo viên dạy bộ môn là người trực tiếp tạo ra “luồng gió” mạnh nhất trong đổi mới PPDH. Không có nhận thức đúng thì người thầy khó có thể đủ quyết tâm để đổi mới PPDH trong hoàn cảnh hiện nay. Trước hết, GV dạy bộ môn phải có nhu cầu thay đổi phương pháp soạn giảng, biết loại bỏ những cách dạy học lạc hậu không còn phù hợp với nội dung chương trình giảng dạy. Một hướng đang được quan tâm trong lý luận dạy học là nghiên cứu sâu hơn về hoạt động học của HS rồi dựa trên thiết kế hoạt động học của trò mà thiết kế hoạt động dạy của GV. Điều này khác với các PPDH truyền thống là chỉ tập trung nghiên cứu kĩ nội dung dạy để thiết kế cách truyền đạt kiến thức của người dạy. Trong hướng đổi mới PPDH hiện nay là tập trung thiết kế các hoạt động của HS sao cho các em có thể tự lực khám phá, chiếm lĩnh các tri thức mới dưới sự chỉ đạo của GV, bởi một đặc điểm cơ bản của hoạt động học là người học hướng vào việc cải biến chính mình, nếu người học không chủ động tự giác, không có phương pháp học tốt thì mọi nỗ lực của người dạy chỉ đem lại những kết quả hạn chế. 2.Cơ sở chọn đề tài: Hóa học là môn học khoa học tự nhiên đòi hỏi khả năng tư duy logic cao để suy luận và vận dụng giải thích các hiện tượng thực tiễn, kiến thức môn học đa dạng phong phú, đặc biệt là các quá trình về oxi hóa khử, các cơ chế của quá trình phản ứng hóa học, tính chất hóa học của các chất cụ thể, viết PTHH của phản ứng, lượng kiến thức dài, đa phần là mới và khó, ngoài ra còn có nhiều bài toán 4
  2. hóa họctương đối khó và phức tạp Như vậy, trong quá trình dạy - học chúng ta sẽ thường gặp một số khó khăn: 2.1: Việc đổi mới PPDH cùng với sự hỗ trợ đắc lực của các phương tiện kĩ thuật đã và đang đạt được những kết quả nhất định. Đặc biệt là phương pháp tổ chức hoạt động nhóm của HS dưới sự hướng dẫn củaGV, dạy học bằng giáo án điện tử, ứng dụng các phần mềm công nghệ thông tin vào giảng dạy,liên hệ các kiến thức thực tế,vận dụng kiến thức liên môn học Tuy nhiên, các phương pháp này đòi hỏi rất nhiều thời gian, trong khi một tiết học trên lớp chỉ có 45 phút thì không đủ thời gian cho các hoạt động có hiệu quả cao nhất. 2.2: HS sẽ chỉ tập trung ghi bài mà không tham gia thảo luận nhóm, hoặc chỉ tập trung thảo luận nhóm, trao đổi và quan sát hình ảnh mà không ghi bài. Như vậy HS không thể nắm được ý chính của bài học để định hướng học tập. 2.3: Phần lớn HS chưa rèn được phương pháp học tập khoa học, cách ghi kiến thức vào bộ não mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được “sự kiện nổi bật” trong bài học, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau,vận dụng linh hoạt vào từng bài cụ thể . Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Vì vậy việc sử dụng sơ đồ tư duy (SĐTD) trong dạy- học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học, tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng, giúp HS học tập một cách chủ động, tích cực, huy động tối đa tiềm năng của bộ não, việc lập SĐTD phát huy được tối đa khả năng sáng tạo của mỗi người. Chính từ thực tế này, GV và HS phối hợp chăt chẽ hoạt động dạy và học theo phương pháp xây dựng SĐTD là điều cần thiết. 3.Áp dụng vào thực tế: 3.1 3.2. Phương pháp lập sơ đồ tư duy a)Các bước lập sơ đồ tư duy - Bước 1: Chọn từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề, hay có thể với một từ khóa được viết in hoa, viết đậm. - Bước 2: Luôn sử dụng màu sắc vì mỗi màu sắc đều có tác dụng phâncấp mức độ kiến thức cần thể hiện. 5
  3. - Bước 3: Nối các nhánh chính (cấp một) đến hình ảnh trung tâm, nối các nhánh cấp hai đến các nhánh cấp một, . bằng các đường kẻ, đường cong với màu sắc khác nhau. Chú ý: Mỗi nhánh chính dùng 1 màu, nhánh cấp 1, cấp 2, cấp 3 phải cùng màu với nhánh chính. - Bước 4: Mỗi từ/ảnh/ý nên đứng độc lập và được nằm trên một đường kẻ hay đường cong. - Bước 5: Tạo ra một kiểu sơ đồ riêng cho mình (Kiểu đường kẻ, màu sắc, - Bước 6: Bố trí thông tin đều quanh hình ảnh trung tâm. b)Cách ghi chép trên sơ đồ tư duy *Cách ghi chép - Dùng từ khóa và các ý chính cô đọng. - Viết cụm từ, không viết thành câu dài dòng. - Dùng các từ viết tắt ngắn gọn. - Có tiêu đề rõ ràng. - Đánh số các ý đầy đủ. - Liên kết các ý nên dùng nét đứt, mũi tên, màu sắc biểu diễn. * Điều cần tránh khi ghi chép trên sơ đồ tư duy - Chép lại nguyên cả nội dung kiến thức bài học dài dòng. - Ghi chép chi tiết nhiều ý vụn vặt không cần thiết. - Đầu tư quá nhiều thời gian để ghi chép trên sơ đồ. 3.3 Thuận lợi và khó khăn khi sử dụng sơ đồ tư duy a) Thuận lợi: - Sử dụng SĐTD là phương pháp học tập gây cảm giác hứng thú, thoải mái, vui vẻ và giàu sự sáng tạo. - Về cơ sở vật chất đã có một số đổi mới và sự đầu tư tạo điều kiện cho hoạt động dạy - học: phòng công nghệ thông tin (phòng học bộ môn), máy vi tính,máy chiếu, bảng phụ 6
  4. - Đa số các GV đã được tập huấn đổi mới PPDH về sử dụng SĐTD trong giảng dạy. - Xã hội hiện nay nền kinh tế phát triển tạo điều kiện cho con người (GV và HS) có điều kiện tiếp cận nhiều nguồn thông tin từ nhiều phương tiện khác nhau. - Khi sử dụng SĐTD trong dạy học các kiểu bài phù hợp tâm sinh lý lứa tuổi HS cấp THCS khắc phục được sự nhàm chán của phương pháp dạy học truyền thống. Vì vậy, gây hứng thú cho người học, kích thích HS tư duy tích cực. b) Khó khăn - Sử dụng SĐTD trong dạy – học là một trong những PPDH mới, nên GV và HS không tránh khỏi lúng túng trong một số kĩ năng như sử dụng phần mềm SĐTD, sử dụng lúc nào, như thế nào, sưu tầm, xử lý thông tin, vẽ, ý tưởng - Nội dung chương trình môn Hóa học THCS, đặc biệt là Hóa học lớp 9 mới, khó, các kiến thức liên quan chặt chẽ với nhau nên GV khó dạy, HS khó học. - Sử dụng SĐTD đòi hỏi mỗi người GV phải có nhiều kĩ năng khác ngoài kĩ năng sư phạm. - Đôi khi GV khó khăn trong việc đánh giá cụ thể hiệu quả làm việc của từng HS. - Cơ sở vật chất có đổi mới nhưng chưa thực sự phù hợp: Số HS, không gian lớp học, trang thiết bị, đồ dùng dạy học, thời gian tiết học - Năng lực của từng HS không đồng đều nên đôi khi việc vẽ SĐTD trong học tập là sự máy móc không hiệu quả, chưa cấp thiết . - Tư tưởng của xã hội, gia đình và đặc biệt là HS đối với bộ môn này đôi khi còn lệch lạc: chưa đầu tư, chưa dành sự quan tâm, chưa chú ý, xem thường hoặc học cho xong. 4. Sử dụng SĐTD trong dạy Hóa học lớp 8,9. Để thiết kế một sơ đồ tư duy đối với một bài học, chúng ta có thể thiết kế bằng vẽ trên giấy, hoặc hệ thống kiến thức bằng sơ đồ trên bảng, hoặc dùng phần mềm Mindmap. Với phần mềm này, giáo viên có thể xây dựng thành một giáo án điện tử với kiến thức được xây dựng thành một sơ đồ, qua đó có thể kết hợp để trình chiếu những nội dung cần lưu ý hay những đoạn phim có liên quan được liên kết với sơ đồ. Trong quá trình thực hiện, phải nhấn mạnh rằng “SĐTD 7
  5. là một công cụ phối hợp các phương pháp khác đã thực hiện thêm phần hiệu quả, không phải là một giải pháp thay thế tất cả các phương pháp khác”. Dưới đây là một số SĐTD minh họa được sử dụng trong chương trình Hóa học THCS đã áp dụng có hiệu quả khi giảng dạy ở trường THCS Cao Minh. 4.1. Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc xây dựng một đơn vị kiến thức. Hóa học là một bộ môn khoa học nghiên cứu thực nghiệm để phát triển các năng lực nhận thức cho HS. Tùy theo mỗi tiết học và tùy theo từng yêu cầu về kiểm tra kiến thức, kỹ năng mà GV có thể áp dụng thêm cách hình thành kiến thức, kỹ năng cho HS bằng cách sử dụng SĐTD. Sử dụng SĐTD vừa giúp GV kiểm tra được phần nhận biết và phần thông hiểu của HS đối với bài học. Do thời gian trong một tiết học chỉ 45 phút, nên các SĐTD thường sử dụng ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu HS điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ giữa các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm. Ví dụ 1: Bài 18: “Nhôm” - Hóa 9 Từ tính chất vật lý và hóa học chung của kim loại, GV hướng dẫn HS dựa trên cơ sở đó vẽ SĐTD tính chất hóa học của nhôm. Sơ đồ 1: 8
  6. TÍNH CHẤT VẬT LÝ CỦA KIM LOẠI 12
  7. to 3Fe + 2O2  Fe3O4 to 2Na + Cl2  2NaCl Fe + 2 HCl FeCl2 + H2 2AgNO3+Cu Cu(NO3)2+2Ag Zn + CuSO4 ZnSO4 + Cu 13
  8. *SĐTD tính chất hóa học của nhôm. Với oxi Oxit kim loại Tác dụng với phi kim Với clo Muối Muối Tác dụng với dung dịch axit Tính chất hóa học của Khí hiđro nhôm Muối mới Tác dụng với dung dịch muối Kim loại mới Tác dụng với dung dịch kiềm Khí hiđro 14
  9. Với kiểu dạy bài học như vậy, để hoàn thành trọn vẹn thì GV phải thường xuyên hướng dẫn HS cách lập sơ đồ, cách ghi chép, cùng HS hoàn thiện những nội dung kiến thức đã học bằng SĐTD nhằm đưa ra đúng, đủ những tri thức mà HS cần nắm vững. Sau đó, HS phải trình bày được những nội dung đó, HS dưới lớp nhận xét, bổ sung và GV là người chốt lại kiến thức. 4.2. Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc củng cố kiến thức Trong những năm học gần đây, theo định hướng của ngành về vấn đề chống đọc chép, GV đã giới thiệu đến HS các kiểu ghi chép theo kiểu đề mục, kiểu luận đề, kiểu tự do. Thông thường ở trường, HS thường được GV hướng dẫn ghi chép bài theo kiểu đề cương, trích dẫn và luận đề còn cách ghi chép theo kiểu tự do dành cho việc học chuyên đề hay dự hội thảo Nhưng điều đáng quan tâm là các kiểu ghi chép trên nếu được kết hợp với việc hệ thống kiến thức bài học theo kiểu SĐTD sẽ giúp HS ghi nhớ lâu hơn, gây hứng thú và niềm đam mê học tập hơn cho HS. Để sử dụng SĐTD trong khi củng cố kiến thức, tổ chức các hình thức hoạt động dạy học trên lớp cho HS: + Hoạt động1: HS lập SĐTD theo nhóm hay cá nhân với sự gợi ý của GV. + Hoạt động 2: Đại diện của các nhóm HS lên báo cáo, thuyết minh về SĐTD mà nhóm mình đã thiết lập. + Hoạt động 3: HS thảo luận, bổ sung, chỉnh sửa để hoàn thiện SĐTD về kiến thức của bài học. GV sẽ là người cố vấn, là trọng tài giúp HS hoàn chỉnh SĐTD. + Hoạt động 4: Củng cố kiến thức bằng một SĐTD mà GV đã chuẩn bị sẵn hoặc một SĐTD mà cả lớp đã tham gia chỉnh sửa hoàn chỉnh, cho HS lên trình bày, thuyết minh về kiến thức đó. Sử dụng SĐTD trong dạy học củng cố kiến thức giúp HS học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả HS tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng HS không chỉ về trí tuệ (vẽ, viết gì trên SĐTD), khả năng hội họa (hình thức trình bày, kết hợp hình vẽ, chữ viết, màu sắc), sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống. 15
  10. Ví dụ: Bài “ Etylen”. Khi dạy bài này GV nên lựa chọn phương pháp vấn đáp gợi mở kết hợp với vẽ SĐTD thực hiện trong phần củng cố bài học. Phản ứng cộng C2H4+ Br2 →C2H4Br2 Nguyên liệu , sản xuất rượu,axit, PVC , PE Có 1 liên kết đôi trong phân tử 16
  11. Cho dù có thực hiện theo cách nào, quan trọng nhất là sau đó HS phải lên trình bày, thuyết trình thông qua SĐTD mà HS hoặc nhóm đã hoàn thành, các HS hoặc nhóm khác nhận xét, bổ sung, GV là người cố vấn, trọng tài giúp HS hoàn chỉnh SĐTD, từ đó dẫn dắt đến những kiến thức trọng tâm của bài. 4.3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong việc hướng dẫn HS giải một số dạng bài tập hóa học Mục tiêu chung của môn Hóa học trong nhà trường phổ thông là HS tiếp thu kiến thức, tri thức khoa học cơ bản quan trọng trong tự nhiên và đời sống. Trên cơ sở hình thành và phát triển nhân cách của một công dân, phát triển các tiềm năng, các năng lực sẵn có và các năng lực chuyên biệt của môn hóa học như : Năng lực sử dụng ngôn ngữ hóa học, năng lực thực hành hóa học, năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề, năng lực tính toán, năng lực vận dụng kiến thức hóa học vào cuộc sống. Bài tập hóa học ở THCS có rất nhiều dạng khác nhau, dưới đây là một số dạng sơ đồ tư duy vậ dụng vào hướng dẫn giải bài tập. 17
  12. *Dạng sơ đồ bài tập thứ nhất: Tính theo CTHH Biết thành phần % các nguyên tố, xác Biết CTHH, tính thành phần % định CTHH theo khối lượng các nguyên tố Tính m của mỗi Tính n nguyên tử Tính M Tính n mỗi Tính m mỗi Tính thành phần % nguyên tố trong của mỗi nguyên Viết CTHH hợp chất nguyên tố nguyên tố theo m mỗi nguyên tố 1 mol hợp chất tố 18
  13. *Dạng sơ đồ bài tập thứ hai n = m : M Tính n của chất mà n = V : 22,4 đầu bài đã cho n = CM x V Tính theo PTHH Viết PTHH Tính n của chất cần tìm dựa vào PTHH và n đã biết. m V(chất khí, Tìm đại lượng của bài dung dịch) yêu cầu Nồng độ dung dịch 19
  14. *Dạng sơ đồ bài tập thứ ba Sơ đồ 1 B1: Trích mẫu thử B1: Trích mẫu thử B2: Chọn mẫu thử Cách trình bày bài B2: Lập bảng: trình tự Cách 1: Dùng PP Cách 2: Dùng PP nhận biết giải bài tập NHẬN B3: Cho thuốc thử vào mẫu mô tả lập bảng thử, nêu hiện tượng quan BIẾT sát được > rút ra kết luận đã nhận được hóa chất B3: Viết PTHH xảy ra nào. khi nhận biết B4: Viết PTHH xảy ra khi nhận biết 20
  15. Sơ đồ 2 1.Phân loại chất cần nhận biết 2.Lựa 5.Lưu ý: Bài tập nhận biết chọn thuốc n chất chỉ cần thử cần nhận biết (n-1) dùng chất. NHẬN BIẾT 3.Dựa vào các dấu hiệu 4.Giải đặc biệt để thích hiện nhận biết(màu tượng, viết sắc, mùi,trạng PTHH thái) 21
  16. Mặc dù khi sắp xếp, các em chưa sắp xếp theo hệ thống kiến thức yêu cầu, cần có sự góp ý của bạn, nhưng tôi nhận thấy các em rất hứng thú khi được học, tự tin khi thuyết trình trước mọi người về SĐTD của nhóm mình hoặc của bản thân hoặc của nhóm khác, bạn khác. Từ đó, GV khuyến khích, gợi mở, hướng dẫn các em đúng sơ đồ chuẩn. Bên cạnh đó, tôi cũng phát hiện ở các em có nhiều sáng tạo rất hay trong việc sắp xếp các thể ôn bài ở ví dụ minh họa trên. Tuy nhiên, sau khi HS đã nắm được cách thức, nguyên tắc xây dựng SĐTD thì không phải tiết nào cũng củng cố bằng SĐTD như vậy sẽ gây nhàm chán, mất thời gian. Vì vậy một biện pháp khác tôi đưa ra là sau khi HS đã làm bài tập, trả lời các câu hỏi phần củng cố thì dùng máy chiếu cho hiển thị từ khóa trung tâm sau đó phát vấn HS về những nội dung đã học trong bài, dùng hiệu ứng của phần mềm PowerPoint lần lượt đưa ra theo mục đích giảng dạy. Qua nhiều bài củng cố như cách thực hiện ở trên, tôi nhận thấy các em nhớ bài nhanh hơn, từng bước xây dựng được kĩ năng diễn giải. Song song với việc củng cố bài học, khi HS đã hoàn thành sơ đồ tóm tắt, tôi thường dành vài phút đề phân tích nhằm khắc sâu kiến thức qua các từ khóa của sơ đồ, cũng như hướng dẫn các em kết nối các từ khóa đó. Bởi mục đích cuối cùng là giúp các em có thể liên kết các bài có kiến thức liên quan được hệ thống thành một SĐTD hoàn hảo. 4.4. Sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy tiết luyện tập. Trước đây, các tiết luyện tập chương một số GV cũng đã lập bảng biểu, vẽ sơ đồ, biểu đồ, và cả lớp có chung cách trình bày giống như cách của GV hoặc của tài liệu, chứ không phải do HS tự xây dựng theo cách hiểu của mình. Hơn nữa, các bảng biểu đó chưa chú ý đến hình ảnh, màu sắc, đường nét. Bài ôn tập không phải chỉ là sự tái hiện, giảng lại kiến thức cho HS mà phải thể hiện được sự hệ thống hóa, khái quát hóa và vận dụng, nâng cao toàn diện kiến thức của phần cần ôn tập cho HS. Vì vậy, có thể thấy SĐTD là một công cụ khá mạnh trong những tiết bài tập, ôn tập. Dưới đây là một trong những SĐTD tôi đã xây dựng để HS tham khảo khi học bài “Luyện tập chương 1”. 22
  17. BẢN ĐỒ TƯ DUY HÓA HỌC 23
  18. 5. KẾT QUẢ SAU KHI THỰC NGHIỆM GIẢI PHÁP Khối Số học Hứng thú học bộ môn Hóa Không hứng thú học bộ môn sinh học Hóa học SL TL SL TL 9 96 81 84,4% 15 15,6% 8 42 33 76,7% 9 23,3% Như vậy, qua phân tích số liệu thu được, có thể nhận thấy: - Tỉ lệ học sinh khá giỏi ở lớp đối chứng 9B thay đổi không nhiều ở cả ba giai đoạn: trước - trong - kết thúc quá trình thực hiện đề tài. - Trên lớp thực nghiệm 9A, tỉ lệ học sinh khá, giỏi có sự thay đổi theo chiều hướng tăng lên rõ rệt; tỉ lệ học sinh có học lực trung bình giảm mạnh khi so sánh các giai đoạn trước - trong - kết thúc quá trình thực hiện đề tài. - Việc áp dụng phương pháp dạy học tích cực- xây dựng sơ đồ tư duy đã góp phần cải thiện đáng kể chất lượng học tập của học sinh, đặc biệt là những học sinh không có năng khiếu học các môn khoa học tự nhiên trong đó có môn Hóa học. 8. Thông tin cần được bảo mật: Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến. Cơ sở vật chất: Sách giáo khoa, SGV, sách tham khảo. Giáo viên: các giáo viên dạy môn hóa học. Học sinh: khối 9 và lớp 8B 10. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu,kể cả áp dụng thử (nếu có) theo các nội dung sau: 10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý của tác giả: Sơ đồ tư duy là một sơ đồ mở, nên đa số học sinh hứng thú với việc sử dụng sơ đồ tư duy trong quá trình học tập. Sơ đồ tư duy không chỉ giúp học sinh thấy thoải mái hơn trong giờ Hóa học, mà còn giúp phát huy được tính sáng tạo của học sinh, kích thích học sinh suy nghĩ tích cực hơn, tăng khả năng tư duy 24
  19. của học sinh và rèn kỹ năng trình bày kiến thức theo một hệ thống logic, giúp ghi nhớ kiến thức được lâu hơn và tiết kiệm được nhiều thời gian ôn tập. Việc sử dụng phương pháp thuyết trình dựa trên sơ đồ tư duy đã phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo của học sinh, rèn kỹ năng mạnh dạn và tự tin khi trình bày trước đám đông. Mặt khác, trong quá trình giảng dạy, việc sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp linh hoạt với nhiều phương pháp học khác sẽ tạo hứng thú trong giờ học, phát huy tính chủ động của học sinh, học sinh ghi nhớ bài lâu hơn nhờ tác dụng của sơ đồ tạo hình sinh động và khoa học. Ngoài ra còn tiết kiệm thời gian trong quá trình ôn tập và củng cố kiến thức. Theo ý kiến chủ quan, GV có thể phân ra 5 cấp độ cho HS khi học theo SĐTD: Cấp độ 1: HS quan sát SĐTD theo mẫu đã vẽ sẵn. Cấp độ 2: HS tái hiện lại SĐTD sau khi đã quan sát, đã học về kiến thức cần trình bày trong SĐTD. Cấp độ 3: HS tự vẽ được SĐTD sau khi đã học xong nội dung kiến thức. Cấp độ 4: HS tự đọc kiến thức mới và tự tổng kết được bằng SĐTD. Cấp độ 5: HS trình bày được các nội dung kiến thức đã học, đã tìm hiểu mà không cần bất kì tài liệu nào. Hi vọng các GV, HS sẽ sử dụng SĐTD để hệ thống kiến thức một cách vững vàng hơn không những ở bộ môn Hóa học mà có thể vận dụng được cho tất cả các bộ môn khác. Ngoài ra, có thể áp dụng dạng SĐTD này vào trong cuộc sống hằng ngày như lập kế hoạch, thời gian làm việc hay vẽ ra những lựa chọn cho tương lai Bằng những kinh nghiệm giảng dạy, qua những bài học thu được trong việc dự giờ các đồng nghiệp, đặc biệt là sự giúp đỡ tận tình của Ban giám hiệu nhà trường, của tổ chuyên môn, tôi đã hoàn thành chuyên đề :"Sử dụng SĐTD trong dạy- học Hóa học THCS" . Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của các đồng nghiệp để vốn kinh nghiệm giảng dạy của tôi được phong phú hơn. 9.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân: Với chuyên đề: “Sử dụng SĐTD trong dạy – học Hóa học THCS” tôi đã nêu ra được phương pháp đổi mới trong dạy –học Hóa học và một số bài tập dùng SĐTD. 25
  20. Sáng kiến kinh nghiệm này khi triển khai ở tổ bộ môn cấp trường được các giáo viên đón nhận hưởng ứng nhiệt tình, đánh giá cao. Sau khi dự buổi tập huấn triển khai sáng kiến các giáo viên trong tổ bộ môn đều nhận thấy đây là một sáng kiến có ích trong việc nâng cao trình độ chuyên môn cho giáo viên và thuận lợi trong công tác giảng dạy cũng như việc học tập của học sinh. Mỗi giáo viên đều đón nhận sáng kiến này làm tài liệu giảng dạy cho mình. Khi áp dụng sáng kiến này trong giảng dạy được các em học sinh tiếp thu một cách hào hứng, các em hiểu bài và nắm vững các phương pháp để vận dụng vào giải từng bài tập cụ thể. Những kinh nghiệm nêu trong đề tài đã phát huy rất tốt năng lực tư duy, độc lập suy nghĩ cho đối tượng học sinh giỏi. Các em đã tích cực hơn trong việc tham gia các hoạt động xác định hướng cách học và tìm kiếm hướng giải cho các bài tập. Bên cạnh đó học sinh đại trà cũng tự tin hơn khi áp dụng làm các bài tập. Với kinh nghiệm cá nhân chưa nhiều, tôi rất mong nhận được sự quan tâm, đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp đề sáng kiến của tôi ngày càng được hoàn thiện và nhân rộng hơn. 10. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu. Số Tên tổ Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực TT chức/cá nhân áp dụng sáng kiến 1 Giáo viên dạy Trường THCS Hoàng Lâu Sử dụng sơ đồ tư duy trong Hóa học Tam Dương – Vĩnh Phúc dạy- học Hóa học THCS 2 Học sinh các Trường THCS Hoàng Lâu Sử dụng sơ đồ tư duy trong khối 8,9 Tam Dương – Vĩnh Phúc dạy – học Hóa học THCS 26
  21. Hoàng Lâu, ngày tháng 3 năm2019 Hoàng Lâu, ngày 2 tháng 3 năm 2019 Thủ trưởng đơn vị Tác giả sáng kiến (Ký tên, đóng dấu) (Ký, ghi rõ họ tên) Nguyễn Việt Trung Nguyễn Thị Phương Hoa 27