Báo cáo biện pháp Một số biện pháp Nâng cao công tác chủ nhiệm lớp

doc 16 trang trangle23 17/08/2023 7682
Bạn đang xem tài liệu "Báo cáo biện pháp Một số biện pháp Nâng cao công tác chủ nhiệm lớp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docbao_cao_bien_phap_mot_so_bien_phap_nang_cao_cong_tac_chu_nhi.doc

Nội dung tóm tắt: Báo cáo biện pháp Một số biện pháp Nâng cao công tác chủ nhiệm lớp

  1. 8 hiện đều đặn và duy trì thường xuyên. Lúc đầu, tôi trực tiếp kiểm tra và hướng dẫn tỉ mỉ phương pháp học tập cho những em học chậm và những em năng khiếu của lớp. Khi việc học bài ở nhà của học sinh đã đi vào nề nếp, tôi phân chia lớp thành các nhóm theo khu vực dân cư (theo tổ) và phân công mỗi nhóm một nhóm trưởng. Em nhóm trưởng sẽ kiểm tra và báo cáo với tôi tình hình tự học ở nhà của các thành viên trong nhóm và đặc biệt lưu ý đến những bạn học chậm hoặc chưa có ý thức tự học ở nhà. Thỉnh thoảng, tôi vẫn đến kiểm tra đột xuất một số em để nắm tình hình. Nếu phát hiện thấy em nào lơ là, tôi phải tăng cường kiểm tra ngay. Thấy tôi quan tâm đến việc học ở nhà của con em mình nên phụ huynh cũng nhiệt tình phối hợp với tôi: nhắc nhở, kiểm tra và tạo điều kiện cho con em mình học tập ở nhà. Sự tiến bộ của học sinh “cá biệt” được tôi thường xuyên thông báo cho gia đình biết qua điện thoại. Vì vậy, phụ huynh rất vui và càng quan tâm đến việc học của các em. 3.6.Xây dựng kế hoạch chủ nhiệm lớp. Cũng như hoạt động giảng dạy, việc lập kế hoạch cho công tác chủ nhiệm lớp là cần thiết và quan trọng. Ngay từ đầu năm, căn cứ vào tình hình thực tế, hoàn cảnh gia đình của từng HS trong lớp, căn cứ vào yêu cầu, nhiệm vụ năm học của tổ chuyên môn, của nhà trường ; căn cứ vào tình hình kinh tế, xã hội tại địa bàn trường đóng, giáo viên phụ trách lớp đề ra kế hoạch chủ nhiệm lớp cho cả năm học, trên cơ sở đó, cụ thể hoá thành kế hoạch học kì, tháng và từng tuần cụ thể. Khi lập kế hoạch chủ nhiệm, cần lưu ý một số điểm sau : + Tìm hiểu kĩ từng đối tượng HS trong lớp về: trình độ nhận thức, sức khoẻ, hạnh kiểm, học lực, các mối quan hệ, hoàn cảnh bản thân, gia đình của học sinh, Việc này GVCN tìm hiểu và biết được qua trao đổi với GVCN ở năm học trước đó của các em, qua học bạ, qua gia đình, bạn bè và các thầy cô khác trong trường. + Nội dung kế hoạch cần phù hợp với lứa tuổi (khối lớp). Thực tế, sát với chủ đề năm học, các chủ điểm trong từng tháng và theo trình tự thời gian trong năm học. + Kế hoạch đưa ra cần lựa chọn biện pháp, phương pháp đa dạng và phong phú để thực hiện cho từng đối tượng học sinh trong lớp. + Tránh việc đưa ra các biện pháp giáo dục không phù hợp hoặc quá mức mà ở lứa tuổi các em không thể thực hiện được. Nếu vậy thì sẽ không có tác dụng hoặc tác dụng ngược lại, GVCN sẽ gặp khó khăn rất nhiều hoặc sẽ thất bại. + Qua một tuần, tháng, học kì GVCN có đánh giá, tổng kết việc thực hiện kế hoạch chủ nhiệm của mình. So sánh sự tiến bộ của từng HS qua từng thời điểm. Rút ra được kinh nghiệm để bổ sung hoặc điều chỉnh các biện pháp cho phù hợp hơn (việc tổng kết này sẽ được đánh giá cụ thể trong tiết sinh hoạt cuối tuần). + Kế hoạch chủ nhiệm được Hiệu trưởng nhà trường xem xét và phê duyệt ngay từ đầu năm học. - -
  2. 9 + Hình thành những kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tham gia các hoạt động tập thể, kĩ năng tổ chức các hoạt động cùng nhau, ; nâng cao ý thức tự chủ, tự tin, chủ động và mạnh dạn, để từ đó các em tham gia vào các hoạt động học tập một cách có hiệu quả. + Luôn bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, đất nước, người thân, bạn bè, Có ý thức tôn trọng và ứng xử tốt với mọi người xung quanh, kể cả các em nhỏ tuổi hơn mình ; sống hoà nhã, sẵn sàng giúp đỡ người khác, tích cực tham gia vào các công việc chung ; ý thức xây dựng môi trường sống thân thiện trong lớp học, trường học, ở gia đình và ngoài xã hội ; ý thức chấp hành tốt những nội quy, quy định của pháp luật, các chuẩn mực đạo đức, khi tham gia vào các hoạt động như học tập, vui chơi, giải trí hoặc các hoạt động xã hội khác ở bất cứ nơi nào. + Kết hợp củng cố tri thức đã học ở trên lớp đồng thời mở rộng các tri thức về tự nhiên, xã hội, con người, mà bài học trên lớp chưa có điều kiện và thời gian mở rộng. Mặc khác, thực hiện tốt công tác chủ nhiệm lớp là trong đó đã xây dựng được một lớp học có nề nếp, có thói quen học tập tốt, phát huy được tính chủ động, tích cực học tập của học sinh, góp phần vào việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay nhằm nâng cao chất lượng học tập của HS (nề nếp là mẹ đẻ của chất lượng ). 3.7. Xây dựng môi trường học tập lành mạnh. Giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên phối hợp với cha mẹ học sinh (CMHS) và các đoàn thể trong và ngoài nhà trường. Các buổi họp cha mẹ học sinh là điều kiện tốt nhất để giáo viên và CMHS bàn bạc đề ra biện pháp giáo dục con em mình tốt nhất. Từ đó xin ý kiến đóng góp của CMHS để giáo viên chủ nhiệm có thêm những kinh nghiệm mới. Thông qua buổi họp, CMHS cũng nắm được nội quy của nhà trường, của đoàn thể của hội CMHS để phối hợp và có trách nhiệm nhắc nhở con em mình thực hiện tốt. Ngoài các buổi họp, giáo viên còn thường xuyên liên hệ với phụ huynh thông qua phiếu liên lạc hoặc gặp trực tiếp để thông báo tình hình học tập và rèn luyện của con em mình mà có biện pháp giáo dục. Cha mẹ học sinh hợp tác tốt với giáo viên chủ nhiệm trong việc hướng dẫn học sinh học tập ở nhà, “Rèn chữ đẹp, giữ vở sạch” và chuẩn bị đồ dùng học tập đúng theo thời khoá biểu mỗi ngày. Ngoài ra tôi còn liên hệ chặt chẽ với gia đình học sinh thông qua vở hợp tác, với những lời nhận xét cụ thể về học lực và những diễn biến trong ngày. Lời phê mang tính chất động viên cùng kết hợp với nhà trường và giáo viên chủ nhiệm để làm tốt công tác tổ chức hoạt động học tập cho các em. Ví dụ: Nếu học sinh còn yếu thì tôi phê :“Có tiến bộ nhưng còn chậm nếu cố gắng hơn sẽ học tốt ”. Trong những lần họp phụ huynh học sinh, tôi báo cáo cặn kẽ kết quả chuyển biến và tồn tại của từng em để gia đình nắm và kết hợp với nhà trường cùng giáo viên chủ nhiệm tạo điều kiện cho các em học tập tốt nhất. Ví dụ: - -
  3. 10 + Với những em không có đồ dùng học tập tôi góp ý :“em học tiến bộ lắm nhưng chưa bằng các bạn vì thiếu đồ dùng học tập”. + Những em thường đi trễ, tôi góp ý: “Em rất thích học nhưng hôm qua em không đạt được bông hoa học tập trong môn Toán vì em đến lớp muộn ”. Qua những lời góp ý, tôi đã bắt gặp ở nét mặt của phụ huynh cái nuối tiếc, họ thấy vì mình mà con không tiến bộ nên sau này họ quan tâm nhiều hơn và các em đó học khá hẵn lên. 3.8. Động viên khuyến khích kịp thời và tạo cơ hội cho các em vươn lên cùng bạn bè: Việc động viên khen thưởng cho học sinh nhằm khuyến khích các em hăng say cố gắng trong học tập và rèn luyện. Đây là động lực tốt nhất để các em phấn đấu và làm gương cho các bạn khác noi theo. Qua đó những học sinh chậm tiến bộ tự nhận ra thiếu sót của mình mà cố gắng học tập và rèn luyện. Qua đây cũng xây dựng tinh thần tự giác, tự chủ trong học sinh mà thi đua cùng tiến bộ. Thường xuyên động viên, khuyến khích khen thưởng kịp thời đối với những em chậm tiến bộ, dù là chỉ một tiến bộ nhỏ, để giúp các em hứng thú và cố gắng hơn trong học tập. Mỗi tháng, giáo viên tổ chức thi đua theo một chủ điểm, mỗi tuần sơ kết 1 lần, có khen thưởng, nhằm tạo sự say mê trong học tập, để từ đó các em ngày càng tiến bộ và mạnh dạn, tự tin hơn. Ví dụ: Đối với học sinh còn hạn chế về kĩ năng, giáo viên ra câu hỏi vừa sức với trình độ của các em, khi các em trả lời đúng câu hỏi, giáo viên khen “Em có tiến bộ trả lời đúng câu hỏi, em đạt 1 bông hoa” hoặc “Em trả lời rất tốt, đầy đủ ý nếu cố gắng hơn nữa em có thể trở thành học sinh tiến bộ vượt bậc”. Khi tổ chức các hoạt động học tập, tôi theo dõi diễn biến tâm lý của các em để điều chỉnh “bầu không khí lớp học” cho phù hợp và cương quyết không để một học sinh nào đứng bên ngoài tiết học. Ví dụ: + Khi thấy các em ngơ ngác trong lúc giảng bài, có nghĩa là các em chưa hiểu, tôi phải giảng chậm lại hoặc đưa ra một ví dụ cụ thể để học sinh phân tích phù hợp với yêu cầu đề bài, từ đó sẽ phát hiện được ngay các em chưa hiểu gì và có hướng giải quyết kịp thời đưa các em vào bài học một cách nhẹ nhàng hơn. + Trong giờ học các em ồn ào nói chuyện có nghĩa là các em đang vướng mắc vấn đề gì đó trong nội dung bài học, lúc này tôi sẽ gọi một số em phát biểu ý kiến. Từ đó tôi có hướng giải quyết vấn đề thật cụ thể hơn. 3.9. Sử dụng vở hợp tác để phối hợp với gia đình học sinh: Vở hợp tác là phương tiện dùng để liên lạc hàng ngày giữa giáo viên chủ nhiệm (GVCN) với cha mẹ học sinh. Ở đây thể hiện trách nhiệm 2 bên đối với học sinh, cùng cộng tác, theo dõi, giúp đỡ giáo dục học sinh, kịp thời giải quyết rất nhiều vấn đề cụ thể của từng học sinh. Hàng ngày, tôi giao việc về nhà cho các em vào năm phút cuối giờ, các em ghi vào vở hợp tác. Phụ huynh dựa vào đó mà nhắc nhở và kiểm tra khâu - -
  4. 11 chuẩn bị bài ở nhà của con em mình và ký tên vào vở hợp tác. Tuỳ theo ngày, tuỳ theo thời khoá biểu mà giáo viên giao việc cho phù hợp (những ngày cuối tuần thường giao việc nhiều hơn nhất là phần đọc, viết). Thế là mỗi ngày các em được giao công việc cụ thể, cứ thế trong mười lăm phút đầu giờ, các em ngồi cạnh nhau kiểm tra bài lẫn nhau, sau đó báo cáo kết quả lại cho tổ trưởng, còn tổ trưởng thì kiểm tra lại rồi báo cáo cho giáo viên chủ nhiệm. Đối với những học sinh còn hạn chế về học tập hoặc vi phạm về các phẩm chất cần sự hỗ trợ của gia đình thì giáo viên nhận xét vào vở hợp tác và đề nghị gia đình một số công việc cần phối hợp thực hiện vào cuối mỗi buổi chiều. Đồng thời gia đình có ý kiến phản hồi vào vở hợp tác để sáng hôm sau GVCN xem và kiểm tra lại. VD: GVCN nhận xét em về em Gia Bảo. + Hôm nay Gia Bảo chưa hoàn thành bài còn lơ là trong giờ học. VD: GVCN nhận xét em về em Thái Tầng như sau: + Hôm nay Thái Tầng quên mang dụng cụ học tập và đi học muộn giờ. VD: GVCN nhận xét em về em Hoàng Minh như sau: + Tuần này Hoàng Minh tiến bộ: viết chữ đúng độ cao, đọc to, rõ ràng, hăng hái phát biểu ý kiến đóng góp xây dựng bài, đặc biệt là biết hợp tác nhóm cùng bạn nên được nhiều bông hoa. Yêu cầu mỗi ngày học sinh phải đưa vở hợp tác cho cha mẹ xem, ghi ý kiến phản hồi và kí tên. Cuối tuần, cha mẹ học sinh nhận xét sự tiến bộ và hạn chế của con mình trong vở hợp tác để GVCN tuyên dương trước lớp trong tiết sinh hoạt cuối tuần. 3.10. Vị trí, vai trò của tiết sinh hoạt cuối tuần: Công tác chủ nhiệm lớp là hoạt động được tổ chức lồng ghép dưới nhiều hình thức: lồng ghép trong quá trình dạy học ở trên lớp; lồng ghép thông qua môi trường giáo dục; lồng ghép thông qua các hoạt động ngoại khoá, ngoài giờ lên lớp; lồng ghép thông qua các mối quan hệ Thầy–Trò, Trò–Trò; lồng ghép thông qua tiết sinh hoạt cuối tuần; Trong đề tài này cũng bàn đến công tác chủ nhiệm lớp thông qua tiết sinh hoạt cuối tuần ở lớp tiểu học. Lời nhận xét từ phía gia đình (mỗi tuần CMHS nhận xét 1 lần để kết hợp GVCN tuyên dương hàng tuần. Đến tiết sinh hoạt lớp lời nhận xét của em nào nấy đọc lên cho GVCN và cả lớp cùng nghe lời nhận xét đó. VD: Nhận xét của gia đình về em Quân Tường. + Có ý thức tự học + Em biết giúp mẹ, chăm sóc cây xanh trong nhà. + Biết tự vệ sinh cá nhân rất sạch sẽ VD: Nhận xét của gia đình về em Anh Trúc. + Ngoan, nghe lời cha mẹ + Em chăm chỉ học hơn, có tiến bộ về ý thức học tập + Biết tự giác đọc bài và viết bài VD: Nhận xét của gia đình về em Thanh Ngọc. - -
  5. 12 + Thanh Ngọc có luyện viết bài và đã học thuộc các bảng nhân từ 2 đến 5. + Ngọc ở nhà rất chăm chỉ, ngoan và phụ giúp mẹ các công việc vừa sức mình. - Nếu như 3 em trên trong tuần ở lớp học tập tốt và không vi phạm về vấn đề gì thì được tổ trưởng đề nghị tuyên dương toàn diện. - Lời nhận xét khác: VD: Nhận xét của gia đình về em Hoàng Dịp. + Hoàng Dịp tuần này ở nhà ăn nhiều rau, không còn ngủ nướng. + Hoàng Dịp chưa khắc phục việc tự giác học tập mà còn đợi sự nhắc nhở của cha, mẹ. VD: Nhận xét của gia đình về em Minh Khoa. + Minh Khoa tuần này ở nhà ăn chậm, không ăn rau lại xem phim nhiều mong sự giúp đỡ của cô. - Nếu như lời nhận xét của 2 bạn như trên mà trong lớp học tốt phát biểu nhiều vẫn không được tuyên dương. - Tiết sinh hoạt cuối tuần được tiến hành đánh giá các hoạt động, các công việc của lớp được diễn ra trong tuần, tháng, học kì, kết hợp giáo dục HS về nhiều mặt, đồng thời các nhiệm vụ, yêu cầu của nhà trường cũng được phổ biến trong tiết này. - Tiết sinh hoạt cuối tuần giữ vai trò quan trọng trong công việc chuyển giao các nhiệm vụ, các phong trào thi đua, của nhà trường tới các lớp một cách kịp thời. - Tiết sinh hoạt lớp cuối tuần giúp HS phát huy được tính tự giác, tinh thần giúp đỡ, cùng nhau hợp tác, năng lực điều hành, tự quản của học sinh. Tiết sinh hoạt cuối tuần giúp các em bộc lộ được khả năng nhận thức về hành vi, thái độ, tình cảm của mình khi tự đánh giá mình và đánh giá các bạn ; khả năng nhìn nhận lại bản thân, so sánh sự tiến bộ của mình, của mình với các bạn bè để từ đó có ý thức phấn đấu vươn lên. Bồi dưỡng cho HS tình cảm yêu thương, gắn bó, sự sẻ chia, thông cảm với bạn bè, với mọi người xung quanh ; sẵn sàng gánh vác công việc chung của lớp, của trường, hình thành nhân cách đúng đắn sau này cho các em. - Tiết sinh hoạt lớp cuối tuần là nơi để người thầy càng hiểu trò hơn, nhằm lựa chọn ra phương pháp giảng dạy và giáo dục HS đúng hướng. 4. Tầm quan trọng của giáo viên chủ nhiệm lớp. 4.1 Giáo viên phải có nghệ thuật trong cách ứng xử với học sinh, là niềm tin, chỗ dựa tinh thần cho học sinh. Như chúng ta đã biết, lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi mưa nắng thất thường, rất dễ tự ái, có lòng tự trọng và sĩ diện. Chỉ cần một sơ suất nhỏ của giáo viên sẽ để lại ấn tượng không tốt cho học sinh, đặc biệt là các em học sinh cá biệt. Chúng sẽ biến đó thành trò đùa và không tin vào lời giáo viên nói. - -
  6. 13 4.2. Giáo viên phải có biện pháp giáo dục thích hợp với từng học sinh, phải thật sự công bằng, xử lý phạt nghiêm minh, khen thưởng kịp thời, nói là làm, làm là phải lựa, biết kết hợp cương - nhu trong mọi tình huống. Bởi không phải lúc nào tình huống đó xảy ra với một em học sinh duy nhất. Giáo viên không thể có thái độ chỉ quan tâm đến học sinh học tập tốt mà trù dập, coi thường học sinh cá biệt, mà phải động viên khuyến khích các em hoà đồng với bạn bạn bè, lễ độ với thầy cô, tích cực tham gia các hoạt động tập thể. 4.3. Đối với học sinh cá biệt phải bằng tấm lòng nhân ái, bao dung, không vụ lợi, đến với học sinh bằng chính tình yêu nghề và lương tâm của người thầy. Nắm bắt điều kiện, hoàn cảnh học sinh về kinh tế, về đời sống tình cảm. Điều đó sẽ có được qua thực tế khi giáo viên xuống thăm gia đình và nói chuyện với phụ huynh học sinh. Giáo dục thông qua các đặc điểm tâm lý của học sinh: kích thích, gây hứng thú học tập cho học sinh. Giáo dục bằng khen thưởng và kỷ luật nghiêm minh, đã hứa điều gì là làm cho kỳ được, nghiêm khắc với lỗi của học sinh. 5. Các mặt chuyển biến của đối tượng: Trong năm học qua, tôi áp dụng đề tài này đã đạt được kết quả thật khả quan: - Duy trì sĩ số : 39/39, đạt 100/%. - Học sinh đọc, viết đạt 100/%. - 100% học sinh tham gia bảo hiểm. - 100% học sinh tham gia tốt phong trào Sao Nhi đồng. - Lớp có nề nếp tốt nhất của trường. - 100% phụ huynh đều quan tâm tới việc học tập, rèn luyện của con em mình. - Không có học sinh bị nhắc nhở trước toàn trường; học sinh đến trường luôn đảm bảo an toàn cả trong giờ học lẫn giờ chơi; không có học sinh gây gổ đánh nhau trong và ngoài nhà trường, không có học sinh bị tai nạn giao thông, tai nạn thương tích. - Đồ dùng dạy học và bàn ghế của lớp suốt nhiều năm qua luôn được bảo quản tốt, không có tình trạng hư hao, mất mát như những lớp khác. - 100% học sinh lớp đều tích cực tham gia các buổi sinh hoạt tập thể. Cuối năm học, các em đã có tiến bộ rõ rệt về khả năng nghe, nói, đọc, viết và tính toán. Học sinh mạnh dạn, giao tiếp hợp tác trong nhóm nâng lên và học sinh hạn chế trong học tập, giao tiếp giảm hẳn theo từng giai đoạn; các em nhanh nhẹn, linh hoạt, có tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau trong học tập. Tập thể lớp luôn dẫn đầu về các phong trào của nhà trường. Các em sử dụng thành thạo đồ dùng học tập và biết sắp xếp hợp lý, mạnh dạn tham gia các hoạt động của nhà trường; có thói quen tự học và biết cách học, biết dùng bút chì để đánh dấu, gạch chân những chỗ quan trọng trong sách giáo khoa. Lớp đã trở thành một khối đoàn kết thống nhất trong mọi hoạt động. Xác định lại các kĩ năng: - -
  7. 14 Các năng Số Các kĩ năng còn hạn chế Ghi chú lực lượng Khả năng tự -Chưa chấp hành nội qui Nhà nghèo, cha phục vụ, tự 0 lớp học. mẹ bỏ nhau. quản. -Thiếu sách, vở, không đủ dụng cụ, quần áo, đầu tóc không gọn gàng; Khả năng -Chưa mạnh dạn trong Con gia đình công giao tiếp, hợp 1 giao tiếp, còn rụt rè trong nhân di chuyển tác nhóm. hợp tác nhóm; chưa dám chỗ ở thường trình bày ý kiến trước đám xuyên. đông, -Chưa có khả năng tự thực Thiếu tập trung Khả năng tự 1 hiện nhiệm vụ học cá nhân trong học tập. học và giải trên lớp. quyết vấn đề. -Chưa biết vận dụng những điều đã học để giải quyết nhiệm vụ trong học tập, trong cuộc sống. -Nói chuyện nhiều trong giờ học. khả năng hợp tác nhóm còn hạn chế, chưa đánh giá được kết quả học tập, III. KẾT LUẬN: 1. Tóm lược giải pháp: Ngay từ đầu năm học, giáo viên chủ nhiệm phải tìm hiểu để nắm hoàn cảnh gia đình, kết quả học tập của năm học trước, năng khiếu, lỗ hổng kiến thức của từng đối tượng học sinh, thành lập “đôi bạn cùng tiến” để các em giúp đỡ nhau trong học tập, từ đó GV có nội dung và biện pháp giảng dạy cho phù hợp. Nắm chắc được các đối tượng, giáo viên chủ nhiệm gặp cha mẹ học sinh để xin số điện thoại, trao đổi thống nhất cách hợp tác giúp đỡ các em học ở nhà, kiểm tra đồ dùng học tập trước khi đến lớp, tạo cho các em góc học tập, nhận xét và thực hiện các yêu cầu trong vở hợp tác giữa giáo viên chủ nhiệm và gia đình học sinh, giữ gìn vở sạch chữ đẹp, xây dựng cho các em môi trường học tập lành mạnh. Giáo viên thường xuyên kiểm tra, nhắc nhở các em thực hiện tốt nội quy trường, lớp và rèn luyện cho các em thói quen tốt trong học tập và vui chơi. Giáo viên phải biết kết hợp tốt ba môi trường giáo dục, phải có tính kiên trì, nhẫn nại, cần cù chịu khó, ham hiểu biết, không ngừng trau dồi phẩm - -
  8. 15 chất đạo đức nhà giáo; luôn học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng được yêu cầu của giáo dục đặt ra trong giai đoạn hiện nay. Giáo viên thường xuyên cập nhật kiến thức về đổi mới phương pháp dạy học thông qua thông tin trên mạng, dự giờ đồng nghiệp, tạp chí giáo dục, thế giới trong ta, Khơi dậy cho học sinh hứng thú trong học tập, niềm say mê đến trường, hăng hái phát biểu ý kiến xây dựng bài và có thói quen chuẩn bị bài đầy đủ trước khi đến lớp. Theo tôi, muốn trở thành một nhà sư phạm, một giáo viên chủ nhiệm lớp giỏi, khéo léo, tinh tế trong ứng xử và thành công trong việc giáo dục học sinh thì mỗi người giáo viên chủ nhiệm cần phải: - Tìm hiểu để biết được một cách toàn diện, sâu sắc về từng học sinh. Hiểu rõ hoàn cảnh gia đình, đặc điểm tâm lí, tính cách, sở thích, thói quen, của từng học sinh để có biện pháp giáo dục phù hợp. - Chú trọng xây dựng và bồi dưỡng ban cán sự lớp, huấn luyện để các em trở thành những “người lãnh đạo nhỏ” tài năng. - Luôn giữ được sự bình tĩnh trước lỗi lầm của học sinh, tìm hiểu cặn kẽ thấu đáo nguyên nhân của mỗi tình huống xảy ra để có cách xử lí đúng đắn, hợp tình, hợp lí; tránh trách nhầm, trách oan học sinh làm các em hoang mang, thiếu niềm tin vào người thầy. - Luôn biết khích lệ biểu dương các em kịp thời. Hãy khen ngợi những ưu điểm sở trường của các em để các em thấy giá trị của mình được nâng cao, có niềm tin và hứng thú học tập hơn. - Luôn thể hiện cho học sinh thấy tình cảm yêu thương của một người thầy đối với học sinh. Hãy nhớ rằng lòng nhân ái, bao dung, đức vị tha của người thầy luôn có một sức mạnh to lớn để giáo dục và cảm hoá học sinh. - Duy trì và sáng tạo trong công tác xây dựng “lớp học thân thiện học sinh tích cực”, làm sao để tất cả các em luôn cảm thấy “mỗi ngày đến trường là một niềm vui. - Phối hợp chặt chẽ với phụ huynh học sinh; kiên trì vận động phụ huynh tích cực tham gia vào công tác giáo dục học sinh. 2. Đối tượng áp dụng: Sáng kiến kinh nghiệm này áp dụng trong trường tiểu học An Ninh Đông đạt kết quả rất tốt, đã hạn chế được tỉ lệ học sinh chưa ngoan và chậm tiến bộ trong học tập, không có tình trạng học sinh bỏ học, góp phần nâng cao chất lượng dạy học của nhà trường và hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học của địa phương. Mặc dù kết quả của kinh nghiệm này còn hạn chế, nhưng cũng đã mang lại nhiều khả quan trong quá trình thực hiện. Do đó, tôi chắc rằng đề tài này áp dụng được ở các trường tiểu học trong huyện, trong tỉnh và đạt hiệu quả cao, vì nó phù hợp với tất cả đối tượng học sinh. Mong được chia sẻ và nhận được những đóng góp chân tình từ các thầy giáo, cô giáo./. - -
  9. 16 An Ninh Đông, ngày 24 tháng 3 năm 2016 Người viết Trần Thị Thu - -