Tham luận Khai thác 5 bước dạy của phương pháp bàn tay nặn bột trong giảng dạy môn khoa học cấp tiểu học

doc 11 trang Giang Anh 20/03/2024 1950
Bạn đang xem tài liệu "Tham luận Khai thác 5 bước dạy của phương pháp bàn tay nặn bột trong giảng dạy môn khoa học cấp tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • doctham_luan_khai_thac_5_buoc_day_cua_phuong_phap_ban_tay_nan_b.doc

Nội dung tóm tắt: Tham luận Khai thác 5 bước dạy của phương pháp bàn tay nặn bột trong giảng dạy môn khoa học cấp tiểu học

  1. trong việc lí giải thấu đáo các thắc mắc của HS nêu ra trong quá trình học. Đây là một trở ngại rất lớn trong việc áp dụng các PPDH tích cực nói chung và phương pháp “Bàn tay nặn bột” nói riêng. Ngay từ bước tiến hành đầu tiên, GV phải tìm được tình huống có vấn đề liên quan đến bài học để khơi gợi sự khao khát tìm hiểu cái mới lạ từ HS. Điều này không hề đơn giản. Người thầy phải có kiến thức vững và nhanh nhạy mới tìm ra được tình huống phù hợp với bài học, với đối tượng là HS tiểu học. Khi đã có được tình huống nêu vấn đề nhưng HS lại không tìm ra được vấn đề cốt lõi cần tìm hiểu hay đưa ra những ý kiến lan man không đúng trọng tâm bài học thì đòi hỏi GV phải nhanh chóng, khéo léo để đưa về vấn đề cần học. - Để thực hiện được phương pháp “Bàn tay nặn bột” đòi hỏi GV phải có kiến thức, kỹ năng về khoa học tự nhiên vững vàng. Đây là một trở ngại rất lớn trong việc áp dụng các phương pháp dạy học tích cực nói chung và phương pháp “Bàn tay nặn bột” nói riêng. * Về phía HS: - Trình độ HS chưa đồng đều. Một số em nhút nhát, không dám bày tỏ ý kiến vì sợ bạn bè chê cười, quá trình làm thí nghiệm dễ dàng bị HS học tốt lấn át. Hơn nữa với những HS yếu, thiếu tập trung rất dễ nhớ sai kiến thức. So với các phương pháp dạy học khác, “Bàn tay nặn bột” không cho phép GV chỉ ngay những sai sót của HS khi các em đang phát biểu. Thế nên, khi GV chốt lại kiến thức chuẩn, nếu không tập trung nghe, HS sẽ không phát hiện những điểm sai của mình để điều chỉnh. Trong quá trình học tập các em phải vận dụng vốn kiến thức thực tế phong phú, phải chủ động, sáng tạo và tích cực. Nếu lớp học thụ động, kiến thức yếu thì tiết dạy theo phương pháp này khó có hiệu quả. Vì tình huống đưa ra các em không hiểu, không đề xuất được ý tưởng ban đầu của mình, không dự báo được kết quả thực nghiệm, và như vậy GV không thể triển khai được vì ý tưởng nghèo nàn. Để thực hiện tốt phương pháp “Bàn tay nặn bột” không chỉ đòi hỏi rất nhiều ở năng lực GV. - Số HS trong một lớp còn đông nên việc tổ chức học tập theo nhóm, tổ chức các hoạt động tham quan, dã ngoại, điều tra thực tế cho HS còn khó khăn. Các thí nghiệm đều do chính HS đề xuất và thực hiện, lớp học đông, quá nhiều nhóm nên GV khó có thể kiểm tra hết các nhóm để phát hiện ngay sai sót trong quá trình thực hiện của các em. Điều này khiến cho việc xác định các em làm sai dẫn đến thí nghiệm không thành công hay ý tưởng ban đầu của các em không hợp lí là một việc khó khăn. III. NỘI DUNG VÀ BIỆN PHÁP THỰC HIỆN Trước thực trạng nêu trên, GV cần làm thế nào để ngay từ khi mới làm quen với môn học hình thành cho các em một số phương pháp học cơ bản, phù hợp với đặc trưng bộ môn Khoa học, kết hợp với các phương pháp, kĩ thuật dạy học hiện đại, tích cực giúp HS chủ động, hứng thú với môn học và học tập đạt hiệu quả cao. Để thực hiện tốt điều đó, chúng tôi đã áp dụng những nội dung và biện pháp sau đây: 1. Nắm chắc quy trình các bước thực hiện và ứng dụng của phương pháp “Bàn tay nặn bột” Dạy học theo phương pháp Bàn tay nặn bột cũng đã được quy thành 5 bước cụ thể như sau: - Bước 1: Đưa ra tình huống có vấn đề cần tìm hiểu - Bước 2: HS bộc lộ quan điểm ban đầu 4
  2. - Bước 3: HS đặt câu hỏi và đề xuất phương án thí nghiệm - Bước 4: HS tiến hành thực nghiệm - Bước 5: HS so sánh kết quả sau thực nghiệm với dự đoán và rút ra kết luận. Trên cơ sở những bước học tập như trên, có thể thấy rằng GV sẽ không phải tốn nhiều thời gian cho việc thuyết trình giảng giải. Đồng thời, kiến thức cũng sẽ được HS tiếp nhận một cách tự nhiên, không gò ép. 2. Khai thác 5 bước dạy của phương pháp “Bàn tay nặn bột” 2.1. Bước 1: Đưa ra tình huống có vấn đề cần tìm hiểu GV đặt vấn đề, gợi ý cho HS nêu câu hỏi, hướng HS đến vấn đề cần nghiên cứu. Ở đây, GV cần ghi lại những ý kiến, những phán đoán ban đầu của HS để so sánh, đối chiếu với kết quả nghiên cứu sau đó. GV giới thiệu phương tiện học tập: Có thể ghi tên PTHT lên bảng phụ trước đó hoặc chiếu trên màn hình sao cho HS quan sát tốt và biết rõ mình có thể chọn lựa những gì cho hoạt động học tập. Nếu tổ chức ngoài thiên nhiên, GV giới thiệu trước địa điểm tiến hành, các quy định về an toàn kỉ luật, GV gợi ý một số cách thức tổ chức thực hiện để tìm hiểu vấn đề. Tùy vào đối tượng HS, những gợi ý này sẽ cụ thể đến mức nào. Tuy nhiên, GV lưu ý để không làm mất khả năng tư duy độc lập và niềm vui sáng tạo ở HS. Việc xác định kiến thức khoa học phù hợp với HS theo độ tuổi là một vấn đề quan trọng đối với GV. GV phải tự đặt ra các câu hỏi như: Có cần thiết giới thiệu kiến thức này không? Giới thiệu vào thời điểm nào? Cần yêu cầu HS hiểu ở mức độ nào? GV có thể tìm câu hỏi này thông qua việc nghiên cứu chương trình, sách giáo khoa và tài liệu hỗ trợ GV để xác định rõ hàm lượng kiến thức tương đối với trình độ, độ tuổi của HS và điều kiện địa phương. Ví dụ: Bài 54 “Cây con có thể mọc lên từ một số bộ phận của cây mẹ” lớp 5: GV xác định mục tiêu của bài, HS phải xác định được vị trí chồi ở một số cây khác nhau và thực hành trồng cây bằng một số bộ phận của cây mẹ. Tình huống xuất phát hay tình huống nêu vấn đề là một tình huống do GV chủ động đưa ra như là một cách hấp dẫn nhập vào bài học. Tình huống xuất phát phải ngắn gọn, gần gũi dễ hiểu đối với HS; nhằm lồng ghép câu hỏi nêu vấn đề. Ví dụ: - Khi dạy bài Không khí gồm những thành phần nào? GV nêu câu hỏi: Theo em: Không khí gồm những thành phần nào? - Khi dạy bài Sự lan truyền âm thanh: GV hỏi: Theo em âm thanh được lan truyền như thế nào? Câu hỏi nêu vấn đề là câu hỏi lớn của bài học; cần đảm bảo yêu cầu phù hợp với trình độ, gây mâu thuẫn nhận thức và kích thích tính tò mò, thích tìm tòi, nghiên cứu của HS nhằm chuẩn bị tâm thế cho HS trước khi khám phá, lĩnh hội kiến thức. GV dùng câu hỏi mở, tuyệt đối không được dùng câu hỏi đóng (trả lời có hoặc không) đối với câu hỏi nêu vấn đề. 2.2. Bước 2: HS bộc lộ quan điểm ban đầu Làm bộc lộ quan niệm ban đầu hay biểu tượng ban đầu để từ đó hình thành các câu hỏi hay giả thuyết của HS là bước quan trọng đặc trưng của PPBTNB. Trong bước 5
  3. này, GV khuyến khích HS nêu những suy nghĩ, nhận thức ban đầu của mình về sự vật hiện tượng mới (kiến thức mới) trước khi học được kiến thức đó. Khi yêu cầu HS trình bày quan niệm ban đầu, GV có thể yêu cầu bằng nhiều hình thức biểu hiện của HS như có thể là bằng lời nói (thông qua phát biểu cá nhân), bằng cách viết hay vẽ để biểu hiện suy nghĩ. GV khuyến khích HS trình bày ý kiến của mình, biết chấp nhận và tôn trọng những quan điểm sai của HS khi các em trình bày biểu tượng ban đầu. Để nâng cao hứng thú của HS, giúp các em thoải mái, thích thú với bài học, từ đó dễ dàng bộc lộ quan niệm ban đầu, GV có thể giới thiệu các tình huống xuất phát nhẹ nhàng, gợi mở nhưng cũng thật ngắn gọn. - Ví dụ: Bài “Cây con có thể mọc lên từ những bộ phận của cây mẹ” lớp 5, Tuần 27: GV dẫn dắt từ câu chuyện tranh cãi giữa hạt, thân, cành, lá xem ai là người giúp cây chào đời mà Đất Mẹ là người phân xử. Vậy nếu em là Đất Mẹ, em sẽ nói gì? Cây con có thể mọc lên từ những bộ phận nào của cây mẹ? Đây là tình huống xuất phát và câu hỏi ban đầu mà GV muốn giới thiệu với HS. - Ví dụ: Bài “Bóng tối” lớp 4, Tuần 23: GV đưa câu đố lôi cuốn sự chú ý của các em HS: “Nắng ba năm ta không bỏ bạn/ Mưa một ngày bạn đã bỏ ta” là gì?”. HS nêu đó là bóng tối, vậy câu hỏi ban đầu sẽ là “Bóng tối sẽ xuất hiện ở đâu và khi nào? Có thể làm cho bóng của một vật thay đổi thế nào?” Để làm được điều này, GV phải là người làm chủ lớp học, thiết lập bầu không khí thân thiện tích cực, chủ động giải quyết mọi tình huống, biết khích lệ hứng thú và tinh thần tích cực chủ động trong học tập cho HS. Nếu HS phát biểu sai, GV khéo léo giải thích để các em vượt qua trở ngại tâm lí e dè, sợ sai không dám bày tỏ ý kiến. Điều này cần thực hiện thường xuyên trong mọi tiết học, mọi môn học để tạo không khí học tập tích cực, chủ động chiếm lĩnh kiến thức của HS. 2.3. Bước 3: HS đặt câu hỏi và đề xuất phương án thí nghiệm 2.3.1. Chọn ý tưởng, nhóm ý tưởng của HS Từ những khác biệt và phong phú về biểu tượng ban đầu của HS, GV giúp HS đề xuất câu hỏi từ những khác biệt đó. Chú ý xoáy sâu vào những sự khác biệt liên quan đến kiến thức trọng tâm của bài học. - Khi một HS nào đó đã nêu ý kiến, GV yêu cầu HS khác trình bày các ý kiến khác hay bổ sung cho ý kiến mà HS trước đã trình bày. Những ý tưởng gần giống nhau thì viết gần nhau để tiện việc nhận xét. - Đối với những ý tưởng phức tạp hay có nhiều ý kiến khác biệt, GV ghi chú tóm tắt lại ở một góc trên bảng để HS dễ theo dõi. Đây là một bước khá khó khăn vì GV cần phải chọn lựa các biểu tượng ban đầu tiêu biểu trong hàng chục biểu tượng của HS một cách nhanh chóng theo mục đích dạy học, đồng thời linh hoạt điều khiển thảo luận của HS nhằm giúp các em đề xuất câu hỏi từ những khác biệt đó theo ý đồ dạy học. Sau khi chọn lọc các biểu tượng ban đầu của HS để ghi chép (đối với mô tả bằng lời) hoặc gắn hình vẽ lên bảng hoặc vẽ nhanh lên bảng (đối với hình vẽ), GV khéo léo gợi ý cho HS so sánh các điểm giống (đồng thuận giữa các ý kiến) hoặc khác nhau (không nhất trí giữa các ý kiến) các biểu tượng ban đầu. Từ những sự khác nhau cơ bản đó, GV giúp HS đề xuất các câu hỏi. 2.3.2. Hướng dẫn HS đề xuất thí nghiệm nghiên cứu hay phương án tìm câu trả lời 6
  4. - Đối với ý kiến hay vấn đề đặt ra đơn giản, ít phương án hay thí nghiệm chứng minh, có thể cho HS trả lời trực tiếp phương án mà HS đề xuất. - Đối với các kiến thức phức tạp, thí nghiệm cần thực hiện để kiểm chứng, HS khó đề xuất đầy đủ và chuẩn xác, GV có thể chuẩn bị một loạt các vật dụng liên quan đến việc làm thí nghiệm, giới thiệu đến HS. Sau đó yêu cầu các nhóm lên lấy các đồ dùng cần thiết để làm thí nghiệm chứng minh. GV cần chuẩn bị trước các nguyên vật liệu cho các thí nghiệm dự kiến để có kết quả như mong muốn, vận dụng tối đa những nguyên liệu sẵn có, dễ kiếm để thực hiện thí nghiệm. Đảm bảo độ an toàn, tính khả thi của các hoạt động quan sát, thí nghiệm trong nhiều hoàn cảnh dạy học khác nhau. - Khi sử dụng công nghệ thông tin cho bài dạy áp dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” cần đúng lúc, đúng chỗ, hợp lí. - Thầy cô theo dõi, xoáy sâu vào các điểm khác biệt gây tranh cãi đó để giúp HS tự đặt câu hỏi thắc mắc và thôi thúc HS đề xuất các phương án để tìm ra câu trả lời. Một số phương án tìm câu trả lời có thể không phải làm thí nghiệm mà tìm câu trả lời bằng cách nghiên cứu các tài liệu (SGK, tờ rơi thông tin khoa học do GV cung cấp ), hoặc quan sát (trên vật thật, trên mô hình, tranh vẽ khoa học ). 2.4. Bước 4: HS tiến hành thực nghiệm 2.4.1. Tổ chức lớp học Bố trí bàn ghế theo nhóm cố định, sắp xếp phù hợp với số HS, chia nhóm nhỏ 4-6 em/nhóm. Có chỗ dành riêng để các nguyên vật liệu chuẩn bị cho việc giảng dạy đảm bảo an toàn, thuận lợi học tập. Không khí làm việc trong lớp học: GV tạo sự thoải mái để tất cả HS ham thích các hoạt động: thực hiện thí nghiệm, suy nghĩ, thảo luận, trao đổi, trình bày bằng lời nói, viết hoặc vẽ 2.4.2. Tổ chức hoạt động nhóm trong phương pháp “Bàn tay nặn bột” GV yêu cầu HS thành lập nhóm có số thành viên cần thiết. Lưu ý: Thành viên nhóm nên thay đổi với mỗi nội dung học tập khác nhau để mọi HS đều có cơ hội thể hiện bản thân. HS chia nhóm, đặt tên nhóm, cử nhóm trưởng, thư kí: GV gợi ý để HS đặt tên nhóm liên quan đến nội dung học tập. Ví dụ: khi HS tìm hiểu về thực vật, tên nhóm của các em có thể là tên của một số loài cây, loài hoa, trái cây như: Nhóm Hoa Mai, nhóm Hướng Dương; khi HS tìm hiểu về động vật như: nhóm chim cánh cụt, nhóm gấu trúc, HS thảo luận để thống nhất các hoạt động thí nghiệm, thực nghiệm, lựa chọn phương tiện, cử thành viên lựa chọn PTDH, Các nhóm tiến hành công việc kết hợp ghi chép cá nhân vào vở thực nghiệm, Đối với các lớp nhỏ (lớp Một, Hai), HS chủ yếu là ghi nhớ và trả lời miệng. - Mỗi nhóm không quá nhiều HS. GV không can thiệp sâu vào vấn đề tổ chức nhóm của HS. - Chú ý vấn đề an toàn trong quá trình các em làm thí nghiệm. - Trong quá trình HS thảo luận theo nhóm, GV di chuyển đến các nhóm, phát hiện những nhóm thực hiện lệnh thảo luận sai để điều chỉnh hoặc chọn ý kiến kém chính xác nhất của một nhóm nào đó để yêu cầu trình bày đầu tiên trong phần thảo luận, cũng như nhận biết nhanh ý kiến của nhóm nào đó chính xác nhất để yêu cầu trình bày sau cùng. 7
  5. 2.4.3. Hướng dẫn HS sử dụng vở thực hành Đây là một hoạt động quan trọng của phương pháp BTNB. Việc ghi chép vào vở thực hành giúp HS rèn khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ viết, biết sử dụng tiếng mẹ đẻ để mô tả một vấn đề khoa học. Theo thời gian, HS sẽ làm giàu vốn từ vựng khoa học của mình một cách chắc chắn theo nhận thức của mình, kết hợp vẽ hình, sơ đồ hay bảng biểu. GV hướng dẫn HS cách ghi chép những ý kiến cá nhân về biểu tượng ban đầu; ghi chép nội dung, cách làm, kết quả thí nghiệm trong khi thực hiện tìm tòi, nghiên cứu. Vở thực hành thực chất là một cuốn vở của HS được sử dụng để ghi chép cá nhân về biểu tượng ban đầu; ghi chép nội dung, cách làm, kết quả thí nghiệm trong khi thực hiện tìm tòi - nghiên cứu. Để ghi chú trong vở thực hành, GV hướng dẫn, yêu cầu HS dùng ít nhất 2 màu mực: Một loại mực dành cho ghi chú cá nhân và thảo luận nhóm; một loại mực dành cho việc ghi chép sự thống nhất sau khi thảo luận cả lớp (kết luận kiến thức). Phân biệt hai loại mực như vậy, HS sẽ dễ dàng nhìn thấy những quan niệm của mình ban đầu thế nào, kiến thức đúng ra sao. Điều này rất có hiệu quả trong việc xóa bỏ “chướng ngại” (các quan niệm ban đầu trước khi học kiến thức). 2.5. Bước 5: HS so sánh kết quả sau thực nghiệm với dự đoán và rút ra kết luận. 2.5.1. Hướng dẫn HS phân tích thông tin, hiện tượng quan sát khi nghiên cứu để đưa ra kết luận GV giới thiệu thêm sách, tài liệu hay thông tin trên internet mà HS có thể có điều kiện tiếp cận được để giúp các em hiểu sâu hơn các kiến thức được học, không bằng lòng và dừng lại với những hiểu biết yêu cầu trong chương trình. GV hướng dẫn HS kĩ năng chú ý đến các thông tin chính để rút ra kết luận tương ứng với câu hỏi trong khi làm thí nghiệm, quan sát hoặc nghiên cứu tài liệu để tìm ra câu trả lời. Muốn vậy, GV cần: - Đưa ra lệnh thực hiện rõ ràng, ngắn gọn, dễ hiểu để giúp HS nhớ, hiểu và làm theo đúng hướng dẫn. - GV quan sát, bao quát lớp khi HS làm thí nghiệm. - Đối với thí nghiệm cần quan sát hiện tuợng để rút ra kết luận, GV lưu ý HS chú ý vào hiện tuợng để lấy thông tin, bám sát mục đích thí nghiệm. - Đối với thí nghiệm cần đo đạc và lấy số liệu, GV yêu cầu HS ghi chép số liệu để rút ra nhận xét. - Cùng một thí nghiệm kiểm chứng nhưng các nhóm khác nhau, HS có thể sẽ bố trí thí nghiệm khác nhau với các vật dụng và cách tiến hành khác nhau theo quan niệm của các em. GV gợi ý, định hướng để HS phân tích thông tin, hiện tượng quan sát khi nghiên cứu để đưa ra kết luận theo trình tự: - Vấn đề nghiên cứu, quan sát, tìm hiểu của nhóm: HS phải trình bày một cách ngắn gọn vấn đề mà các em vừa tìm hiểu. - Đồ dùng cần thiết cho việc nghiên cứu: HS liệt kê những ĐDDH mà các em đã lựa chọn và sử dụng trong quá trình làm việc của nhóm. 8
  6. - Mô tả kế hoạch làm việc của nhóm: HS phải báo cáo về quy trình thực hiện công việc của nhóm, mô tả công việc của từng thành viên và của cả nhóm. Thông qua việc mô tả này, GV có thể nắm bắt được cách tổ chức thực hiện công việc, mức độ tham gia công việc của các thành viên trong nhóm, - Kết quả nghiên cứu, tìm hiểu mà nhóm đã đạt được: HS báo cáo trung thực kết quả của hoạt động nghiên cứu mà nhóm tìm ra thông qua hoạt động thí nghiệm hay thực hành. - Kết luận khoa học về vấn đề nghiên cứu: HS đưa ra các kết luận khoa học đã được thống nhất trong nhóm dựa trên các kết quả nghiên cứu. - Thuận lợi, khó khăn khi làm việc, cách khắc phục của nhóm nếu có. - Kiến nghị liên quan đến vấn đề cần tìm hiểu nếu có. Tiến trình tìm tòi nghiên cứu khoa học trong phương pháp “Bàn tay nặn bột” là một vấn đề cốt lõi, quan trọng. Tiến trình tìm tòi nghiên cứu của HS không phải là một đường thẳng đơn giản mà là một quá trình phức tạp. HS tiếp cận vấn đề đặt ra qua tình huống (câu hỏi lớn của bài học); nêu các giả thuyết, các nhận định ban đầu của mình, đề xuất và tiến hành các thí nghiệm nghiên cứu; đối chiếu các nhận định (giả thuyết đặt ra ban đầu); đối chiếu cách làm thí nghiệm và kết quả với các nhóm khác; nếu không phù hợp HS phải quay lại điểm xuất phát, tiến hành lại các thí nghiệm như đề xuất của các nhóm khác để kiểm chứng; rút ra kết luận và giải thích cho vấn đề đặt ra ban đầu. Trong quá trình này, HS luôn luôn phải động não, trao đổi với các HS khác trong nhóm, trong lớp, hoạt động tích cực để tìm ra kiến thức. 2.5.2. So sánh kết quả thu nhận được và đối chiếu với kiến thức khoa học Sau khi khi thực hiện thực nghiệm tìm tòi – nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành, tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách khoa học. GV khắc sâu kiến thức cho HS bằng cách cho HS nhìn lại, đối chiếu lại các ý kiến ban đầu (bước 2). Như vậy từ những quan niệm ban đầu sai lệch, sau quá trình thực nghiệm tìm tòi- nghiên cứu, chính HS tự phát hiện ra mình sai hay đúng mà không phải do GV nhận xét một cách áp đặt. Chính HS tự phát hiện những sai lệch trong nhận thức và tự sửa chữa, thay đổi một cách chủ động. Những thay đổi này sẽ giúp HS ghi nhớ một cách lâu hơn, khắc sâu kiến thức. Sử dụng bảng tương tác hỗ trợ việc đánh giá kết quả học tập của HS, so sánh, tổng kết, kết luận kiến thức sẽ đem đến cho HS những kiến thức hết sức sinh động, trực quan, dễ hiểu, nhớ lâu, tạo ấn tượng mạnh, làm cho HS hào hứng hơn khi tham gia học tập, GV có nhiệm vụ tóm tắt, kết luận và hệ thống lại để HS ghi vào vở coi như là kiến thức của bài học. Trước khi kết luận chung, GV nên yêu cầu một vài ý kiến của HS cho kết luận sau khi thực nghiệm. IV. KẾT QUẢ THỰC HIỆN Những biện pháp mà chúng tôi áp dụng trong thời gian qua đã phát huy tác dụng thông qua việc ngày càng có nhiều tiết học, nhiều hoạt động vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”. Trong mỗi giờ học vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột”, bảng tương tác, các em HS đều tỏ ra rất hứng thú tìm tòi, khám phá, chủ động và tích cực tham gia các hoạt động học tập. Chỉ qua thời gian ngắn thực hiện, nhiều kĩ năng của HS tiến bộ rất rõ rệt: tinh tế trong quan sát, thuyết phục trong trình bày, chuẩn xác trong thực hành thí 9
  7. nghiệm, năng động trong làm việc nhóm, chặt chẽ trong phân tích và đánh giá, Hơn thế nữa, các em có niềm tin vào bản thân mình, ghi nhớ lâu và chắc chắn đối với những kiến thức đã tìm hiểu. Ngoài ra, môi trường học tập cũng thuận lợi hơn khi kích thích được niềm ham thích học tập trong mỗi HS. V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Từ thực tế vận dụng trong quá trình dạy học, chúng tôi cũng rút ra những bài học kinh nghiệm sau đây: Một là: GV tự giác, tích cực nâng cao chất lượng giảng dạy thông qua việc dạy học phương pháp Bàn tay nặn bột. Phương pháp này đòi hỏi GV chủ nhiệm phải có tầm hiểu biết rộng, có sự chuẩn bị công phu cho mỗi giờ học từ dụng cụ thí nghiệm, trang thiết bị học tập đến các tình huống có thể xảy ra trong quá trình HS làm thí nghiệm. Bởi khi bắt tay vào làm thí nghiệm, khi thấy có bất cứ hiện tượng gì xảy ra, các em đều đặt ngay câu hỏi “Tại sao ?”. GV phải vững kiến thức để cùng các em giải đáp các thắc mắc, lí giải các hiện tượng một cách khoa học. Hai là: Các nội dung trên cần đưa vào trong các buổi sinh hoạt tổ khối chuyên môn cũng như việc bồi dưỡng thường xuyên nhằm nâng cao sự hiểu biết khoa học, bồi dưỡng kiến thức để vận dụng phương pháp Bàn tay nặn bột và ứng dụng bảng tương tác trong dạy học một cách thành thạo, khoa học. Thường xuyên rút kinh nghiệm và điều chỉnh việc dạy và học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột” Ba là: Chú ý vấn đề an toàn, tính khả thi trong quá trình các em làm thí nghiệm. GV phải dự đoán các thí nghiệm HS có thể làm để chuẩn bị đủ các vật dụng, nguyên liệu cần thiết; dự đoán các tình huống xảy ra để lưu ý HS tránh những họat động có thể gây nguy hiểm. Việc tự làm thiết bị dạy học của GV rất quan trọng và cần thiết. GV sử dụng các vật liệu gần gũi, dễ tìm và tiết kiệm để làm đồ dùng dạy học. Soạn giáo án điện tử với những hình ảnh minh họa, đoạn phim sát với bài học hay những hoạt động tương tác như thùng chứa, trắc nghiện active vote, giúp HS say mê, hứng thú với bài học. Bốn là: Nắm vững những nguyên tắc cơ bản của dạy học dựa trên cơ sở tìm tòi - nghiên cứu: HS cần phải hiểu rõ câu hỏi đặt ra hay vấn đề trọng tâm của bài học. Để đạt được yêu cầu này, bắt buộc HS phải tham gia vào bước hình thành các câu hỏi. Tự làm thí nghiệm là cốt lõi của việc tiếp thu kiến thức khoa học. Tìm tòi nghiên cứu khoa học đòi hỏi HS nhiều kĩ năng. Một trong các kĩ năng cơ bản đó là thực hiện một quan sát có chủ đích. Học khoa học không chỉ là hành động với các đồ vật, dụng cụ thí nghiệm mà HS còn cần phải biết lập luận, trao đổi; biết viết cho mình và cho người khác hiểu. Dùng tài liệu khoa học để kết thúc quá trình tìm tòi - nghiên cứu. VI. KẾT LUẬN Cùng với các PPDH khác, “Bàn tay nặn bột” là một phương pháp giáo dục tiên tiến, giúp hình thành kiến thức và nhân cách cho trẻ em. HS hoạt động tích cực và đầy hứng thú khi được học theo phương pháp “Bàn tay nặn bột” góp phần phát triển tư duy lôgic, trí tưởng tượng, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo thực hành và vốn ngôn ngữ khoa học, kèm theo sự vững vàng trong lập luận cho các em. Đó chính là những yếu tố quan trọng 10
  8. để giúp HS nắm bắt kiến thức để tìm tòi khám phá, phát huy tính tích cực của mình. Thời gian qua, Trường Tiểu học Lê Đức Thọ đã đẩy mạnh việc triển khai, mở rộng vận dụng phương pháp “Bàn tay nặn bột” và sử dụng hiệu quả bảng tương tác trong giảng dạy bộ môn Khoa học lớp 4, 5. Trong thời gian tới, đội ngũ GV sẽ tiếp tục tham gia các lớp tập huấn về phương pháp “Bàn tay nặn bột” để nâng cao nhận thức, bồi dưỡng kĩ năng, phương pháp. Thường xuyên trao đổi với các đồng nghiệp nhằm rút kinh nghiệm, điều chỉnh việc dạy và học bằng phương pháp “Bàn tay nặn bột” cho tốt hơn. Tự thiết kế sáng tạo phương pháp “Bàn tay nặn bột” trong những modul kiến thức khác với sách giáo khoa và thực hiện trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp. Mỗi GV không ngừng phấn đấu, nâng cao năng lực chuyên môn, nắm vững phương pháp “Bàn tay nặn bột” và các phương pháp dạy học tích cực khác; tích cực xây dựng các tài liệu chuyên môn phục vụ dạy học, nắm chắc các điều kiện của trường như cơ sở vật chất, phương tiện, thiết bị dạy học, tài liệu tham khảo./. 11